FAIR USE EXCEPTION TO COPYRIGHT:
https://damau.org/65079/ty-hong-qua-ci-nhn-cua-hoc-gia-tn-nu-nha-trang
Túy Hồng qua cái nhìn của học giả Tôn Nữ Nha Trang(Trích đoạn)
Trong khi Nhã Ca và Nguyễn Thị Thụy Vũ chuyên chú vào việc mô tả tình thế khó xử của người đàn bà trong những hoàn cảnh cay nghiệt, chú tâm chính của Túy Hồng nằm ở việc tái duyệt xét sâu sắc vị thế của người phụ nữ trong mối liên hệ nam-nữ.
Túy Hồng sinh ra dưới tên Nguyển Thị Túy Hồng tại làng Chí Long, Tỉnh Thừa Thiên, vào năm 1937. Bà lớn lên tại Huế, theo học các trường trung học Đồng Khánh và Quốc Học, rồi trải qua hai năm tại trường Đại học Huế, tới năm 1961 thì quay qua dậy học. Lần đầu tiên bà thử sáng tác là vào lúc chờ nhận nhiệm sở đi dậy học, và truyện đầu tiên của bà là “Bát Nước Đầy,” do tạp chí Văn Hữu in vào năm 1961. Sau đó lần lượt xuất hiện những truyện ngắn khác trên Văn Hữu, Bách Khoa, và Văn, ngay lập tức lôi kéo sự chú ý của độc giả và khiến bà trở thành một tác giả đáng kể. Một số trong những truyện ngắn này xuất bản thành sách với tựa Thở Dài (1964). Tiếp theo là tập truyện ngắn Vết Thương Dậy Thì (1965). Cả hai tập cùng được xuất bản tại Huế. Vào năm 1966, Túy Hồng cùng gia đình dọn vào Sài Gòn, tại đây bà kết hôn với Thanh Nam, nhà văn, và tiếp tục vừa dậy học vừa viết văn. Sau khi sinh con trai đầu lòng vào năm 1968, bà nghỉ dây học và chú trọng vào viết văn toàn thời. Thời kỳ viết sung sức nhất của bà là từ 1969 tới 1972 khi bà viết thường xuyên cho trên hai mươi nhật báo và tạp chí. Bà cũng còn dùng bút hiệu Hân Tố Tố cho những bài phiếm viết vào 1969-1970. Tới tháng Tư 1975 bà đã xuất bản hai mươi cuốn sách, quan trọng nhất là Thở Dài (tập truyện ngắn, 1964), Tôi Nhìn Tôi Trên Vách (tiểu thuyết, 1970), và Những Sợi Sắc Không (tiểu thuyết, 1971).
Thở Dài gồm năm truyện ngắn. Truyện ngắn dùng làm tựa tập truyện kể về hoàn cảnh của một cô giáo trẻ khi nhỏ bị một lính Pháp hiếp, cảm thấy mình bị cô lập với các bạn cùng trang lứa, bị ám ảnh bởi nỗi sợ trở thành gái già vì người đàn ông duy nhất hiểu và chập nhận được cô thì lại ở ngoài tầm với. “Vòng Tay Anh” kể về kinh nghiệm của một cô giáo khác đã yêu thương một người đàn ông suốt ba năm mà không biết là anh ta đã có vợ và là cha của năm người con. Cô ngủ với anh ta trong cơn tuyệt vọng để khám phá ra anh ta không xứng đáng với nỗi nhục nhã và đau đớn của mình. “Ngày Xuân Đêm Xuân” kể về một cô công chúa nhà Nguyễn nổi loạn đối với đời sống ngột ngạt, trì trệ trong Hoàng Thành. Sự nổi loạn của cô là thẳng thắn khước từ cung cách đạo đức áp đặt trên cô qua việc đối xử tệ với người chồng chọn cho cô và mối tình của cô dành cho một người đàn ông khác ngay sau khi chồng cô bị giết chết. “Nhìn xuống” mô tả tâm trạng bối rối của một cô dâu trẻ sống chung với đại gia đình nhà chồng với bà mẹ chồng ghen tuông đã phá hỏng hoàn toàn hạnh phúc của cô, một phần của hạnh phúc ấy cô đang tìm lại được khi biết mình mang thai. “Lòng Thành” trình bầy hoàn cảnh của một cô ca sĩ trẻ mong ước một cuộc sống riêng tư làm vợ và mẹ, song bị chồng áp lực phải tiếp tục bán giọng ca của mình để tăng thêm ngân quỹ gia đình. Với giọng ca ngày một sa sút, kết quả là lợi tức suy giảm khiến chồng cô hết còn tình cảm đối với cô, và sau khi con cô chết vì thiếu sự săn sóc của mẹ, cô tìm an ủi nơi một cô bạn, người mà sau đó lại là kẻ chính phục trái tim của chồng cô ca sĩ.
Tôi Nhìn Tôi Trên Vách là tiểu thuyết đầu tay của Túy hồng, xuất bản năm 1971. Đây là câu chuyện về cuộc hôn nhân giữa một phụ nữ không-còn-trẻ-lắm xuất thân từ Huế, với một nhà văn không-còn-trẻ-lắm gốc Bắc, cả hai gặp nhau khi cùng sống ở Sài Gòn. Cuốn tiểu thuyết mô tả đủ loại xung đột [Bắc, Trung, và Nam], những xung đột càng trở nên phức tạp khi họ quyết định dọn về sống chung với gia đình của người vợ, gồm cha mẹ và các em của nàng. Sự bất bình và khó chịu của người vợ vì tình trạng bất bình đẳng trong hôn nhân vì bà phải hy sinh và tỏ ra rộng lượng hơn được tác giả diễn tả một cách hiện thực và châm biếm hài hước.
Những Sợi Sắc Không, tác phẩm mà tác giả hài lòng nhất, đã đem về cho bà Giải Văn Học Quốc Gia năm 1971. Tiểu thuyết này đã được đăng từng kỳ trên tạp chí Vấn Đề từ tháng Mười 1967 tới tháng Mười Hai 1970, và chưa cả xuất bản thành sách khi bà gửi đi dự thi. Chuyện kể về giai đoạn vừa anh dũng vừa bi thảm đối với người dân Huế khi giới trí thức trẻ bắt tay với giới Phật tử để lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa dưới thời Ngô Đình Diệm. Trong thời gian sau khi nhà Ngô bị lật đổ đã diễn ra sự chia rẽ giữa các nhóm một thời liên kết. Giới sinh viên thì muốn duy trì cái nhìn lý tưởng về một cuộc cách mạng và muốn dân chúng theo họ trong cuộc tranh đấu chống lại chính quyền; tuy nhiên giới Phật giáo thì lại từ chối không muốn tiếp tục tổ chức chống đối. Trong bối cảnh đó là hai nhân vật nữ trẻ tuổi: một gia nhập phong trào vì những lý do lý tưởng; người kia, một nhà văn đang lên, tham gia để có dịp tìm hiểu tình hình nhiều hơn. Kinh nghiệm của các nhân vật này phản ảnh tình trạng rối rắm, rối loạn, và thay đổi mãnh liệt trong thực tại xã hội tại Huế – điều này còn bao gồm cả việc khước từ khuôn thước của các định chế xã hội chưa từng xẩy ra nơi nhà văn trẻ.
Túy Hồng cũng còn viết về phụ nữ trong yêu đương. Đây là những phụ nữ có bề ngoài trung bình và thuộc gia đình tầm thường, hoặc kết hôn trễ hoặc còn độc thân trong khi các bạn đồng trang lứa may mắn hơn đã ổn định chuyện chồng con. Việc họ đã quá tuổi kết hôn và bị xã hội nhạo báng hay kết tội đã khiến họ nghĩ về tình yêu như một thỏa mãn lãng mạn riêng tư, song đúng ra là để tự phóng thích khỏi cảnh không chồng. Áp lực tuân theo những đòi hỏi của xã hội thường đẩy họ vào các liên hệ tình cảm và tình dục ngoài ý muốn, khiến họ bơ vơ, khao khát của họ không được tiếp nhận và thỏa mãn. Các [nhân vật] phụ nữ này bác bỏ và chỉ trích những định kiến xã hội không còn hợp thời và đã cho họ rất ít chọn lựa, song cuối cùng thì họ lại bị lôi cuốn vào các định chế đó.
Khác với các nhân vật phái nam vốn dĩ là ích kỷ của tác giả Linh Bảo, người đàn ông trong tác phẩm của Túy Hồng được trình bầy như cũng là nạn nhân của hệ thống xã hội [cổ hủ] này. Bởi chính họ đã từng bị nhồi sọ việc coi phụ nữ phục tòng và chịu mọi bất lợi là điều đương nhiên nên chính họ cũng không thấy chọn lựa nào khác – cho họ cũng như cho người đàn bà. Túy Hồng mô tả cái địa ngục mà những người phụ nữ trẻ không chồng này phải trải qua ở mức độ sâu xa nhất của tâm lý của họ, luôn bị ám ảnh bởi bề ngoài và khát vọng tình dục, lùng bùng trong một mạng lưới yêu, ghét, ganh tị, ghen tuông, hứng khởi, tuyệt vọng, tự thương xót – đầy dẫy ràng buộc của đạo đức đòi người đàn bà cho đi song không nhận lại được bao nhiêu. Sự chú tâm của nhà văn vào khối nữ giới vốn bị bỏ quên này đã, nói không quá, phong phú hóa nội dung của văn học Việt hiện đại. Khía cạnh tình dục trong liên hệ nam nữ, như đã trải nghiệm bởi người phụ nữ, chưa bao giờ đã được mô tả sâu sắc như vậy. Trên một khía cạnh khác, sự khoái lạc thể xác đã được diễn tả một cách có nghệ thuật, phần lớn qua kỹ thuật gợi hình hoặc qua ngôn ngữ, do đấy mà sự mô tả không bao giờ trở nên thô tục.
Khác với Nguyễn Thị Thụy Vũ dùng ngôi thứ nhất để kể chuyện của các nhân vật của mình, các nhân vật nữ của Túy Hồng được trình bầy như là chính họ dùng ngôi thứ nhất để kể lại chuyện của họ, khiến kinh nghiệm và cảm xúc của họ có cái gần gũi và xác thực một cách sâu sắc. Tuy nhiên, trên cả cái nhìn soi sâu này có lẽ đã khơi dậy sự tò mò của nhiều độc giả, mà còn là thái độ của tác giả đối với một chủ đề đã tạo nên một chỗ đứng riêng biệt cho bà so với đồng nghiệp. Bà có thể được nhìn như cây bút hài hước thuần thành qua khả năng sử dụng chất liệu của mình với giọng châm biếm khiến người đọc phải bật cười đồng thời không khỏi suy nghĩ. Trong khi văn của Linh Bảo tế nhị và cay đắng xuất phát từ cảm nhận về các nghịch cảnh lố bịch của đời sống, ta tìm thấy trong nghệ thuật của Túy Hồng sự châm biếm vừa trào lộng vừa huyên náo của một người đàn bà luôn cằn nhằn trong khi nêu lên những lề luật và định chế phi lý khôi hài trong khi chính mình lại đang ngụp lặn trong đó. Theo thời gian, tính hài hước nghịch ngợm này dần bớt huyên náo và trở thành phê phán tinh tế hơn, chuyển biến từ hành động sang nhận định châm biếm – thể hiện qua những câu đối thoại khai triển một cách có nghệ thuật. Khai thác tâm lý nhân vật và xử dụng đối thoại là hai khía cạnh nổi bật trong văn chương của nhà văn. Sâu xa hơn thì ta có thể nói là chính qua đối thoại mà tâm lý nhân vật được phơi bầy hơn là qua những mô tả động tác. Sự căng thẳng của cốt chuyện, qua các chuyển biến bất ngờ trong đối thoại, khiến người đọc thích thú theo dõi, và từ đó thấm đượm một cách tự nhiên việc xây dựng nhân vật của tác giả.
Cuối cùng, ta có thể đưa ra giả thuyết là văn phong của Túy Hồng ngầm chứa một nỗ lực tìm kiếm sự mới mẻ cho văn chương Việt hiện đại, một quan tâm của nhiều người đồng thời với bà. Quả thế, bà không bước theo con đường mòn đầy những ngôn ngữ sáo mòn vay mượn không phù hợp với kinh nghiệm địa phương. Bám sát cái bột phát tự nhiên xuôi chảy của tiếng địa phương Huế nơi bà sinh trưởng, bà sản xuất ra một văn phong gói gọn nhịp đập của đời sống ấy vào thế giới bà tái tạo trong tác phẩm. Đọc văn bà là nghe cái giọng Huế mô tả người và vật trong ngôn ngữ và châm ngôn địa phương thuần khiết; là lắng nghe những diễn tả đầy phản kháng bí mật và tinh quái của phụ nữ Huế đằng sau cái bề mặt bảo thủ và khắc khổ của một thành phố kiêu kỳ. Đọc bà là thấy cái độc đáo của tiếng Huế chộn lộn với tiếng mẹ đẻ vốn phong phú trong so sánh và ẩn dụ, và đầy âm điệu. Sự so sánh của bà thật bất ngờ và thông minh, do đấy không hề buồn chán; thay vì thế, chúng cho ta cái thú vị ở chỗ tìm thấy cái gì đó quen thuộc cách lạ lùng. Cũng vậy là việc bà khéo léo dùng những từ thông thường và cả sáo ngữ nhưng mang nghĩa mới, trong một bối cảnh nào đó, song ai cũng hiểu và chấp nhận. [Dứt trích đoạn]
No comments:
Post a Comment