VH Tiếng Nói Văn Học Việt Houston VH

VVH Tiếng Nói Văn-Học Việt-Houston (Viet Voice From Houston). Xin gửi bài vở về địa chỉ wendynicolennduong@post.harvard.edu. Contributing articles and commentaries should be submitted to wendynicolennduong@post.harvard.edu.

COPYRIGHT NOTICE AND DISCLAIMER

Về vấn đề bản quyền (copyright) cho tác giả Việt Nam của các bài viết được đăng tải ở đây: Chúng tôi nhận được những bài viết này từ độc giả hoặc từ các môi trường truyền thông của các nhóm người Việt, vì tác phẩm đã được phổ biến ở một môi trường công cộng nào đó. Chúng tôi mạn phép đăng tải theo lời giới thiệu của độc giả, dưới thẩm quyền "fair use exception" của luật trước tác bản quyền, vì làm việc cho mục đích giáo dục quần chúng, không vụ lợi. Nếu độc giả nào biết tác giả, xin cho chúng tôi biết để gửi lời chính thức xin phép, hoặc nếu tác giả không bằng lòng, xin cho chúng tôi biết ngay để chúng tôi lấy bài xuống theo ý của tác giả.

disclaimer re content

Quan điểm của tác giả hay độc giả trình bày ở đây không phải là quan điểm của người hay nhóm chủ trương VVFH, và vì thế chúng tôi không chịu trách nhiệm về những quan điểm hay dữ kiện đưa ra bởi tác giả hay độc giả. The views and supporting facts expressed by the authors or commenters published here are not necessarily those expressed or endorsed by VVFH or its editors. Accordingly, VVFH disclaims liability with respect to such content.

MỤC ĐÍCH:

Lời nhắn với học trò Việt Nam của giáo sư WENDI NICOLE Dương, cựu học giả FULBRIGHT Hoa Kỳ và cựu giáo sư luật đại học Denver:


Cô thành lập tập san này là đề cố gắng giữ lại những cái đẹp trong văn hóa cội nguồn của Việt Nam, đã giúp chúng ta đứng vững trên hai ngàn năm, dựa trên những giá trị đặc thù của người Việt nhưng đồng thời cũng là giá trị tổng quát của nhân loại. Hy vọng TIENG NOI VAN HOC VIET-HOUSTON, gọi tắt là VH, hay VVFH (Viet Voice from Houston) sẽ đến với người Việt trên toàn thế giới, qua độc giả thích văn chương văn học trong cả hai ngôn ngữ Việt-Anh, từ bàn tay và ánh mắt của một số it học trò Việt đang sinh sống ở Mỹ hoặc ở Việt Nam, của chính cô, cũng như của thế hệ đi trước biểu tượng là cha mẹ cô, những giáo sư ngôn ngữ.


Wendi Nicole Duong (Nhu-Nguyen) tháng tư April 2015

TRIO OF WATER LILIES

TRIO OF WATER LILIES
TRIO OF WATER LILIES enamel, markers, pen and pencil on paper. artwork by Wendi Nicole Duong copyright 2013: in all three regions of Vietnam, one can always find Hoa Sung, water lilies!

Tuesday, July 30, 2019

for viet readers: the novelistic art -- phan loai tieu thuyet

My favorite novella (long short story),
translation by my father, Dr. Nhu Duc Dzuong,
formerly of the Faculty of Letters,
University of Saigon (pre-1975)



PHỎNG VẤN DƯƠNG NHƯ NGUYỆN VỀ VIỆC PHÂN LOẠI TIỂU THUYẾT Ở NƯỚC MỸ
THỰC HIỆN BỞI PHƯỢNG CÁC, WEB PHỤ NỮ VIỆT, 2005.
Độc giả (Phượng Các): Bà nói với báo Nhà, năm 2005, rằng trong tương lai sẽ viết tiểu thuyết thương mại. Như thế có nghĩa là sao?
 “Tiểu thuyết thương mại” dịch từ chữ “commercial fiction.” Tôi xin cắt nghiã như sau:
Trước hết muốn hiểu v/d phân loại tiểu thuyết thương mại, chúng ta phải bắt đầu bằng thể loại "tiểu thuyết văn chương."
Tiểu thuyết văn chương là một truyền thống viết văn, một thể viết văn, một hình thức nghệ thuật tiểu thuyết đã trở thành một thông lệ rất nhất định từ nhiều thế kỷ, trên toàn thết giới. Thông lệ và thể thức rất quan trọng cho bộ môn phê bình văn học.
“Tiểu thuyết văn chương” khác với những tác phẩm mà các nhà phê bình gọi là “tiểu thuyết phân loại” (dịch chữ“genre fiction”), chẳng hạn như “tiểu thuyết trinh thám,’ “tiểu thuyết yêu đương tình cảm phụ nữ,” “tiểu thuyết kinh dị,” “tiểu thuyết khoa học giả tưởng,” vân vân và vân vân.
Các loại tiểu thuyết mà tôi mới nêu trên, gọi chung là “genre fiction,, dịch nôm na là “tiểu thuyết phân loại,” thông thường viết rập khuôn theo công thức mà không đặt vấn đề sâu xa hơn, nhằm bán cho quần chúng một hình thức “mua vui” (entertainment) và vì thế rất ăn khách, có thể bán hàng triệu cuốn.
Các “tiểu thuyết phân loại” này đều là những thể dạng khác nhau của “tiểu thuyết thương mại.”
“Tiểu thuyết văn chương” dịch từ chữ “literary fiction.” “Tiểu thuyết thương mại” dịch từ chữ “commercial fiction.”   
Tuy nhiên, cũng có những tiểu thuyết thương mại viết rất tuyệt vời và trở thành một sản phẩm văn chương lưu truyền, được đem học trong trường lớp. Đồng thời, cũng có những “tiểu thuyết phân loại” không dễ dàng gì có thể đem phân loại theo “genre.” Lấy thí dụ, John Grisham viết về thế giới của luật sư. Tác phẩm của Ghrisham rõ ràng là tiểu thuyết thương mại, nhưng thuộc về “genre” gì? Có nhiều nhà phê bình cho rằng đó là “genre” luật pháp hay “genre” tòa án.
Lại có nhiều nhà phê bình cho rằng tác phẩm của Aimy Tan (được truyền tụng là một “tiểu thuyết văn chương”) chính ra cũng chỉ là tác phẩm thương mại mà thôi, thuộc hình thức “phân loại” gọi là“genre” thiểu số hay “genre” dân tộc (ethnic fiction).      
Những tiểu thuyết không thể đem để vào “genre” nào hết mà có giá trị nghệ thuật trường cửu hơn thì gọi chung là “tiểu thuyết văn chương/” Và từ đó có thêm một “phân loại” nữa gọi là “phân loại văn chương.” Đó là “phân loại” khó bán nhất, bán rất ít, nhưng lại là “phân loại” dễ được đem vào lớp học văn chương. (Tuy nhiên, tiểu thuyết thương mại cũng vẫn có thể đem vào lớp học để nghiên cứu về thủ thuật viết văn và “hấp dẫn tính” của tiểu thuyết thương mại).   
Lấy thí dụ là gần đây [2005] trên diễn đàn TALAWAS do bà Phạm Thị Hoài chủ trương có một cuộc bàn luận về tiểu thuyết thương mại của Stephen King – có nên được giải thưởng văn chương hay không. Viết được một tiểu thuyết thương mại bán hàng triệu cuốn làm độc giả say mê như Stephen King không phải là chuyện nhỏ, hay chuyện “bá vơ.”  
 Tiểu thuyết thương mại, đặt nặng vấn đề thị hiếu của thị trường mua vui cho độc giả, không có nghĩa rằng đó là một tiểu thuyết rẻ tiền. Tiểu thuyết thương mại thường thường phải có tình tình tiết éo le, gay cấn, phải có cốt truyện giật gân, cuốn hút độc giả, và thường thường phải có hậu, hay nếu không có hậu, thì cũng phải kết thúc một cách lâm ly làm thỏa mãn người đọc.
Nghệ thuật viết một tiểu thuyết thương mại cho tới cái đỉnh cao của tiểu thuyết thương mại đòi hỏi tài năng, trí tưởng tượng, và nhiều công trình nghiên cứu, và phải bắt mạch độc giả cho đúng. Ian Fleming, người đã tạo dựng nhân vật James Bond là một nhà văn cừ khôi. Tiểu thuyết của ông cũng có thể đem phân loại là “tiểu thuyết thương mại.
Stephen King là một nhà kể chuyện đại tài, một đầu óc tưởng tượng phong phú. Sidney Sheldon là một người bắt mạch nhu cầu giải trí về tiểu thuyết của nữ giới và quần chúng bình dân khá chính xác (và ông cũng là một nhà viết truyện phim cho Hollywood).  John Grisham viết về thế giới luật sư rất chính xác, vì ông là một luật sư.  Scott Turrow, một luật sư khác, là một văn sĩ mà theo tôi có văn phong dồi dào, cách mô tả nhân vật và tâm lý khá tuyệt vời. Tất cả đều là những nhà văn thương mại. 
Như thế thì làm sao chúng ta biết rằng thế nào là một “tiểu thuyết văn chương”? Tôi xin đưa thí dụ sau đây:
Tôi đang đọc một tuyển tập truyện ngắn của các tác giả châu Mỹ La Tinh, do nhà xuất bản danh tiếng Penguin-Putnam chủ trương.  Dịch giả là Thomas Colchie, được Guggengheim Fellowship, một học bổng văn chương danh tiếng của Hoa Kỳ. Trong tập truyện có một tác giả từ Brazil, một phụ nữ tôi rất thích, bà Claris Lispector. Cầm tập truyện lên, chúng ta biết ngay đây là thể dạng tiểu thuyết văn chương. Vì sao?
Nhân đây xin cho tôi nói thêm về văn sĩ này. Tôi thích bà Claris vì thuở thiếu thời bà rất nghèo (cũng giống tôi và gia đình nhà giáo của tôi). Khi lớn, bà tự đi học luật (cũng giống tôi), và sau đó lấy chồng là một luật sư và nhà ngoại giao (điểm này có phần hơi giống cuộc đời của tôi).  Bà viết rất sớm, năm 16 tuổi (cũng giống tôi), nhưng mãi đến khi lấy chồng, thì bà mới thật sự có phương tiện để “tung hê” ngòi viết.  Tuy nhiên, điểm làm tôi thích bà nhất là ở lối viết của bà – tỉ mỉ và rất nội tâm, đưa vào tâm lý và triết học, có thể nói đọc rất chán, và khi đọc, phải đọc từng chữ, từng câu, không bỏ sót, đi theo tâm lý nhân vật từng bước một, từng chi tiết một, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ. Thể dạng viết như thế làm tôi liên tưởng đến ngòi bút của Thomas Mann và cuốn Death in Venice (đã được đem làm phim, và tôi rất thích cuốn phim này).  
Đây là một hình thức tiểu thuyết văn chương rõ ràng. Một hai giáo sư văn chương báo chí của tôi trong dòng chính thì luôn luôn đả kích và cho rằng trong thời buổi này nếu tôi viết theo lối Thomas Mann, tôi sẽ không bao giờ trở thành nhà văn Mỹ cả, vì sẽ không ai chịu xuất bản sách cho tôi.
Những nhà phê bình đứng đắn và các dịch giả nói rằng bà Clarice Lispector viết với một văn phong rất điệu nghệ mà chính xác, và tác phẩm đem lại những hiệu quả triết lý (“a writer of extraordinary stylistic precision and enormous philosophical consequence”).  Đọc Thomas Mann cũng như Clarice Lispector thì thấy rõ ràng tác phẩm của họ là tác phẩm văn chương chứ không thể là tác phẩm thương mại. 
Một cách phân biệt nữa là nhìn vào thể thức viết. Như tôi đã nói, tiểu thuyết thương mại chú trọng đến vấn đề thu hút độc giả, dựa trên cốt truyện và tình tiết biến đổi éo le, “giật gân” (the plot).  
Tiểu thuyết văn chương chú trọng đến “tiếng nói của nhân vật” (the voice). Một bên chú trọng vào cốt truyện, một bên chú trọng vào nhân vật. Tiếng nói của nhân vật, càng rõ rệt, càng nhân bản, càng độc đáo, càng chăm chút, càng tỉ mỉ, càng cô đọng, càng vươn cao, thì “văn chương tính” càng nổi bật hơn, đưa độc giả vào cùng tâm linh, tâm thức, tâm lý rất phức tạp của người cất tiếng nói (cho dù độc giả có thể chán nản và nhức đầu), thay vì chú trọng vào cốt truyện để thỏa mãn thị hiếu độc giả.  Đó là tiêu chuẩn tôi dùng để định giá và phân biệt tiểu thuyết văn chương, cho chính mình.
Tuy nhiên cốt truyện và sự chuyển tiếp (cấu trúc; structure and movement) cũng vẫn là căn bản nòng cốt của tiểu thuyết văn chương. Nếu không có cốt truyện và cấu trúc, tác phẩm trở thành một sự kể lể và ghi nhận (nòng cốt của văn báo chí, hay một loại nhật ký nào đó, nhưng không phải là văn chương tiểu thuyết sáng tạo).
Riêng ở môi trường văn học Việt Nam (không cộng sản), tôi nghĩ không ai chối cãi được rằng Bướm Trắng của Nhất Linh là một tiểu thuyết văn chương, và tiểu thuyết của bà Tùng Long là một hình thức “tiểu thuyết phân loại” rất thịnh hành và dễ được ưa chuộng (genre fiction).
 Còn Mai Thảo thì sao? Nếu có nhà phê bình cho rằng thiểu thuyết của Mai Thảo tương tự như tiểu thuyết của Scott Fitzgerald, thì đó là tiểu thuyết văn chương. Nếu tiểu thuyết của Mai Thảo được xem tương tự như tiểu thuyết của Sidney Sheldon, thì đó là tiểu thuyết thương mại.  Điều đó không có nghĩa là Mai Thảo hoặc Sidney Sheldon rẻ tiền hay không có chút giá trị nào.  Cũng không thể nói rằng tiểu thuyết của bà Tùng Long hay các nhà văn thương mại nổi tiếng của Hoa Kỳ là kém giá trị hay rẻ tiền. Chỉ có thể nói là tác phẩm nhắm đến một giới độc giả khác.
Theo tôi thì Mai Thảo không phải như Fitzgerald, và cũng không phải như Sheldon.
Khi tôi nói trong đời, mình sẽ viết ít nhất là một cuốn tiểu thuyết thương mại, tôi muốn nói thể dạng tiểu thuyết có thể đem ra phục vụ nhu cầu giải trí (entertainment) như kỹ nghệ phim ảnh của Hollywood.  Điều đó không có nghĩa là tôi sẽ viết tiểu thuyết rẻ tiền. Từ trước đến giờ, tôi viết văn không bao giờ nghĩ đến việc có bán được sách hay không, hoặc viết để độc giả vui lòng. Tôi ghét nhất là khi phải đi tìm mại bản văn chương (literary agent) hay đi tìm nhà xuất bản(publisher). Từ trước đến giờ…chưa đi tìm.  
Khi viết để theo đuổi cái nhìn riêng biệt của mình, sự đi tìm cái đẹp riêng mình, mà không chạy theo nhu cầu giải trí hoặc nhằm mục đích lấy cảm tình của độc giả để bán sách cho chạy và được khen, tức là tác giả đã chọn thể loại tiểu thuyết văn chương. 
Nói theo định nghĩa của văn học VN, thì văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng. Viết cái gì chăng nữa, nếu có vẻ đẹp và vẻ sáng trong đó, cho dù hiện thực tàn bạo xấu xí đến đâu đi nữa, thì vẫn là tiểu thuyết văn chương.
Hiện nay có không biết bao nhiêu sinh viên ở Mỹ học văn chương sáng tác (càng ngày càng ít đi)? Nhưng ai lựa chọn con đường này không có nghĩa là họ kiêu ngạo tự cho rằng tiểu thuyết của mình đã đạt được tiêu chuẩn “vẻ đẹp và vẻ sáng” của giá trị văn chương.
Điều đó chỉ có ý nghĩa là họ đi trên con đường viết theo thể dạng “tiểu thuyết văn chương” mà thôi.
Cho dù tôi viết tiểu thuyết thương mại (theo mô thức entertainment) đi nữa, thì tôi vẫn luôn luôn là một người viết rất chú trọng đến “thể dạng thẩm mỹ” (style). The Asia Review khi nhận xét về cuốn Sông Huong, có gọi tôi là một “literary stylist.” Tôi cảm thấy người đọc ấy đã hiểu được phần nào con đường đi của tôi.
Nói cho cùng, tất cả tiểu thuyết sáng tạo đều phải cung ứng chon nhu cầu đi tìm cái đẹp của nhân loại. Sự thưởng ngoạn cái đẹp là phần “đi tìm niềm vui hoặc ý nghĩa” trong cuộc đời, cho dù đó là niềm vui trong nước mắt hay ý nghĩa xấu xa tiêu cực nào đi chăng nữa. “Mua vui chỉ được một vài trống canh, Nguyễn Du của Việt Nam đã nói. 
Độc giả (Phượng Các): Qua cuốn Mùi Hương Quế ra đời năm 1999, có rất nhiều độc giả Việt Nam cho rằng bà viết quá táo bạo, “taboo” trong địa hạt tình dục, và đã dùng điều này để phán đoán đời sống cá nhân của bà. Bà nghĩ sao?
Có thể đối với họ thì như thế. Độc giả mốn nghĩ sao cũng được. Tôi chẳng thấy tiểu thuyết của tôi có gì táo bạo.  Cha mẹ tôi, là người đứng sau việc xuất bản Mùi Hương Quế của Nhà Xuất Bản Văn Nghệ năm 1999, là nhà giáo và tương đối là những người thủ cựu của văn hóa Việt Nam, cũng chẳng thấy gì là táo bạo.
Tuy nhiên, câu hỏi này là dịp để tôi phân biệt thế nào là tiểu thuyết sáng tạo và thế nào là hồi ký dựa trên đời sống có thực.  Rất nhiều người đọc trong cộng đồng Việt Nam hoàn toàn không chú trọng đến vấn đề phân loại văn chương: “tiểu thuyết” (fiction) hay là “phi tiểu thuyết” (non-fiction).  Nếu đã gọi là tiểu thuyết, tức là thể loại văn chương hư cấu. Dùng chữ “tiểu thuyết hư cấu” tức là lặp đi lặp lại, và không dùng sát nghĩa chữ “tiểu thuyết.” Trong thể dạng tiểu thuyết, tác giả không chịu trách nhiệm phải đi theo sát sự thực ngoài đời.  Điều đó không có nghĩa rằng tiểu thuyết gia không viết trên kinh nghiệm sống cuả chính mình.  Khi đã gọi là tiểu thuyết, thì độc giả không cần tìm hiểu đâu là sự thực, đâu là hư cấu. Vì ngay trong thể loại "tiểu thuyết" đã là “hư cấu” rồi.
Nhân dịp câu hỏi nêu lên vấn đề "viết táo bạo," tôi xin nói về địa hạt này.  
Tôi đã nói nhều về cái hiện tượng gọi là “đua đòi viết tình dục” với nhà văn/nhà báo/người phỏng vấn Nguyễn Xuân Hoàng, được đăng tải trên Talawas của bà Phạm Thị Hoài.  Văn chương tiểu thuyết sáng tạo là địa hạt xé rách những cái gì gọi là cấm kỵ. Văn chương là nơi chốn của tự do tuyệt đối trong sự sáng tạo.
Thường thường nghệ sĩ được coi là những con người phi đạo đức (amoral). Riêng điều này, tôi không đồng ý. Chúng ta không có thể có sự đồng ý 100 phần trăm thế nào là tiêu chuẩn đạo đức, nhưng đạo đức là căn bản của đời sống nhân loại, làm chúng ta khác thú vật. Sự đi tìm tự do tuyệt đối trong tư tưởng, cảm nghĩ của thế giới văn chương không có nghĩa văn chương là vô nhân bản, phi nhân bản, phi nhân văn, vô đạo đức, phi đạo đức, hay đồi trụy như ma túy cần sa là nọc độc làm hủy hoại con người.
Văn chương sáng tạo đối với tôi là một sự xây dựng, đi tìm cái gì trường cửu hơn cho nhân loại.  Jean Paul Sartre đã nói không có cuốn tiểu thuyết nào hay mà không có giá trị đạo đức nào đó. (Tôi nhắc câu này vì thích hợp, chứ không phải vì tôi thần tượng Sartre).
Các tiểu thuyết thực sự rẻ tiền, thí dụ truyện khiêu dâm (pornography) thì theo tôi không đáng gọi là tiểu thuyết.
Tôi tạm dịch nghĩa đen của tiểu thuyết là “a little essay.” Loại truyện khiêu dâm như một viên thuốc kích thích bán lấy tiền, không kể đến hậu quả, không thể là “a little essay.
Tuy nhiên, có rất những tác phẩm chú trọng vào vấn đề kích thích dục tính, vừa trở thành tác phẩm văn chương lừng lẫy, vừa bị đem ra quảng cáo và biến hóa thành tác phẩm khiêu dâm.  Điển hình là cuốn History of O, của Pauline Reage nước Pháp.  
Riêng trường hợp tiểu thuyết của Marquis de Sade thì cho đến giờ này vẫn là một vụ án văn chương chưa giải quyết.  Miễn bàn tới.
Khi tiểu thuyết chú trọng vấn đề kích thích tình dục, nhưng cách thức viết tràn trề tính chất nghệ thuật, không bỉ ổi hoặc làm mất giá trị nhân bản, thì tiểu thuyết ấy trở thành "literary erotica," theo tôi trong giới văn học Việt Nam chưa hề có, hoặc có thể đang được bắt đầu, nhưng chưa hề được đem ra bàn cãi nhận định cho đúng chỗ.
Literary erotica cần phải được phân biệt với các “tiểu thuyết phân loại” khác (genre fiction) hoặc “tiểu thuyết văn chương” (literary fiction) trong đó có những “scene” liên quan đến dục tính.
Một literary erotica đúng nghĩa, theo tôi, là một tác phẩm văn chương viết với mục đích khêu gợi tình dục, mô tả hoạt động tình dục của nhân vật. Tuy nhiên sản phẩm không phải là viên thuốc gợi dục, mà vẫn là một bức tranh mang nét đẹp của nhân sinh, là một phần đóng góp quan trọng cho kinh nghiệm sống của nhân sinh. Đó là định nghĩa của tôi về chữ "literary erotica" được một số dịch giả gọi là “tiểu thuyết gợi tình.
 Nói tóm tắt, theo tôi: (1) literary erotica, có thể là tiểu thuyết văn chương. (2) literary fiction, “tiểu thuyết văn chương” có các chương hay cảnh diễn tả hay liên quan đến đời sống tình dục của nhân vật, không phải là tiểu thuyết gọi tình”. (3) truyện khiêu dâm (pornography) không phải là tiểu thuyết gợi tình, cũng không phải là tiểu thuyết văn chương. 
 Nói tóm lại, truyện khiêu dâm là một hình thức “rác” của chữ nghĩa, ai thích đọc “rác” thì đọc (chẳng khác chi phim con heo XXX), vì thế truyện khiêu dâm không phải là tiểu thuyết gợi tình mà cũng không phải là tiểu thuyết văn chương. Tôi có thể nói rằng theo tôi, truyện khiêu dâm không phải la "tiểu thuyết" dịch sát nghĩa Hán Việt là "a little theme, or a little essay."  
Tất cả các tiểu thuyết gợi tình đều có thể là tiểu thuyết văn chương, nhưng không phải tiểu thuyết văn chương nào cũng là tiểu thuyết gợi tình, chỉ vì tiểu thuyết có một vài cảnh hay cốt truyện liên quan đến đời sống tình dục của con người.     
Hy vọng những điều tôi giải thích trên đây sẽ giúp độc giả khi đọc những bài nhận định vể tiểu thuyết tiếng Việt.
NÓI THÊM -- POSTCRIPT 2019:  Cuộc nói chuyện với chị Phượng Các xẩy ra vào năm 2005 (lúc đó tôi chỉ vừa mới cho ra đời cuốn tiểu thuyết Con Gái Của Sông Hương, ấn bản thứ nhất.)  Hiện nay, trên thị trường Mỹ, một nhà văn gốc Việt đã đoạt giải Pultizer về dạng tiểu thuyết văn chương nói về nước Mỹ và kinh nghiệm Việt Nam. (Tiểu thuyết cuả tôi thì chưa bao giờ đươc gửi đi cho bất cứ cuộc thi văn chương nào ở nước Mỹ cho sách trong nước Mỹ cả, và tôi mất đi khoảng trên 10 năm sáng tác tiểu thuyết vì lý do cá nhân. Tuy nhiên, nội dung những gì tôi nói trên đây vẫn còn xác thực.  Ba cuốn tiểu thuyết văn chương cuả tôi bị để chung vào tiễu thuyết thương mại, tiểu thuyết phân loại, qua nhà xuất bản và nhà bán sách Amazon, là điều tôi hoàn toàn bất bình.)
Lưu ý: hiện giờ, có các học giả lo ngại là, nhìn vào con đường trứớc mặt, dạng tiểu thuyết văn chương đúng nghĩa nhất sẽ không còn nữa trong thế giới internet, netflix, và digital ngảy hôm nay...
WND 2005-2019