VH Tiếng Nói Văn Học Việt Houston VH

VVH Tiếng Nói Văn-Học Việt-Houston (Viet Voice From Houston). Xin gửi bài vở về địa chỉ wendynicolennduong@post.harvard.edu. Contributing articles and commentaries should be submitted to wendynicolennduong@post.harvard.edu.

COPYRIGHT NOTICE AND DISCLAIMER

Về vấn đề bản quyền (copyright) cho tác giả Việt Nam của các bài viết được đăng tải ở đây: Chúng tôi nhận được những bài viết này từ độc giả hoặc từ các môi trường truyền thông của các nhóm người Việt, vì tác phẩm đã được phổ biến ở một môi trường công cộng nào đó. Chúng tôi mạn phép đăng tải theo lời giới thiệu của độc giả, dưới thẩm quyền "fair use exception" của luật trước tác bản quyền, vì làm việc cho mục đích giáo dục quần chúng, không vụ lợi. Nếu độc giả nào biết tác giả, xin cho chúng tôi biết để gửi lời chính thức xin phép, hoặc nếu tác giả không bằng lòng, xin cho chúng tôi biết ngay để chúng tôi lấy bài xuống theo ý của tác giả.

disclaimer re content

Quan điểm của tác giả hay độc giả trình bày ở đây không phải là quan điểm của người hay nhóm chủ trương VVFH, và vì thế chúng tôi không chịu trách nhiệm về những quan điểm hay dữ kiện đưa ra bởi tác giả hay độc giả. The views and supporting facts expressed by the authors or commenters published here are not necessarily those expressed or endorsed by VVFH or its editors. Accordingly, VVFH disclaims liability with respect to such content.

MỤC ĐÍCH:

Lời nhắn với học trò Việt Nam của giáo sư WENDI NICOLE Dương, cựu học giả FULBRIGHT Hoa Kỳ và cựu giáo sư luật đại học Denver:


Cô thành lập tập san này là đề cố gắng giữ lại những cái đẹp trong văn hóa cội nguồn của Việt Nam, đã giúp chúng ta đứng vững trên hai ngàn năm, dựa trên những giá trị đặc thù của người Việt nhưng đồng thời cũng là giá trị tổng quát của nhân loại. Hy vọng TIENG NOI VAN HOC VIET-HOUSTON, gọi tắt là VH, hay VVFH (Viet Voice from Houston) sẽ đến với người Việt trên toàn thế giới, qua độc giả thích văn chương văn học trong cả hai ngôn ngữ Việt-Anh, từ bàn tay và ánh mắt của một số it học trò Việt đang sinh sống ở Mỹ hoặc ở Việt Nam, của chính cô, cũng như của thế hệ đi trước biểu tượng là cha mẹ cô, những giáo sư ngôn ngữ.


Wendi Nicole Duong (Nhu-Nguyen) tháng tư April 2015

TRIO OF WATER LILIES

TRIO OF WATER LILIES
TRIO OF WATER LILIES enamel, markers, pen and pencil on paper. artwork by Wendi Nicole Duong copyright 2013: in all three regions of Vietnam, one can always find Hoa Sung, water lilies!
Showing posts with label Creative Fiction Short Story Truyen ngan. Show all posts
Showing posts with label Creative Fiction Short Story Truyen ngan. Show all posts

Monday, May 25, 2020

the works of Tran Mong Tu

VIETVOICE FROM HOUSTON là một e-magazine nhưng vì tôi bận việc chăm sóc cha mẹ gia đình từ 2013 đến 2019 cho nên không phát triển. Nay đọc TRAN MONG TU, tôi q/định ̣đăng bài này vì giá trị lích sử và văn chương -- khó kiếm: FIAR USE EXCEPTION FROM COPYRIGHT. Nếu bà TMT không bằng lòng, tôi sẽ lấy xuống.

Ba Tran Mong Tu xung dang la nha tho va nha van voi tac pham va bon cau tho duoi day.  Bon cau tho co am dieu tho Duong, mot loai am van dieu cua Duong Thi dua tren van bang trong cau  bay chu, nhieu hon van trac. Day la loai am dieu dac biet chi co Bich Khe va To Thuy Yen di theo ma thoi. Va bay gio qua bon cau tho trong bai viet nay, co them Tran Mong Tu.

POSTED UNDER FAIR USE EXCEPTION TO COPYRIGHT:
from FB Tin Chim cua chi Mime Do

Không thể ngờ đã tìm được tông tích hai câu thơ vẫn thuộc nằm lòng từ những ngày chủ nhật theo mẹ đi thăm mộ ông bà. Mà sao lại nhớ khác? Câu đầu tiên thiếu chữ “mới”. Bắt đầu từ lúc đó có rất nhiều những ngôi mộ mới của những người sĩ quan rất trẻ
DÒNG SÔNG ĐỨNG LẠI
TRẦN MỘNG TÚ.
Áo cưới chàng may còn mùi vải
rượu hồng thiếp uống còn cay môi
xa nhau một phút ngàn thu vắng
nỗi buồn này biết làm sao nguôi.
(Trần Mộng Tú)
Đấy là 4 câu thơ trên mộ anh Thái Hoàng Cung, do người vợ trẻ Trần Mộng Tú khắc lên khi anh còn dùng địa chỉ Mạc Đỉnh Chi.

Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:
“Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.”
Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp:
“Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.”
Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.
Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ.
Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.
“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn.”
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”
Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó.
Tôi tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.
“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giầy sau ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thò nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo “Đúng là Cung rồi.”
Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với nhưng người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau.
“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đình này ít khóc nhất.
Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.
Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà cô còn may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương.
Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?
Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.
Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
Tôi trôi mãi rồi cũng phải dạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.
Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.
Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.
* * *
Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định.
Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi Họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.
TRẦN MỘNG TÚ

Saturday, November 30, 2019

hồi ký DNN, Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm, bản mới nhất tháng hai 2023


My grandmother,
the aristocratic woman of Huế, Việt Nam



My mother, the young bride from Huế, Việt Nam


My father, the retired immigrant teacher,
along the coast of Texas, 
about five years before his passing


Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm

NOTE FROM THE AUTHOR:  

Below is my first piece of Vietnamese creative writing penned in or about 198́8,  when I just started my job as a young lawyer for the U.S. Securities & Exchange Commission in Washington, D.C. (Leaving my law firm to work as a government lawyer meant I could get away from billable hours, so I started to write at night).  

Out of an impulse, I stayed late at work one evening to write this short piece. Totally impromptu.  I wrote about the image of my grandmother and her wait to catch floating coffins.  The floating coffins came to her in a dream.  

But whose coffins?  

***

I wrote without a break, and cried on every line of text.  This was the first and the only time I wept my heart out for the loss of South Vietnam in 1975 -- the loss of whom and what I loved.  

That same weekend, I sent this this piece to my father in Texas. He then retyped it on his manual typewriter, put in the Vietnamese diacritics by hand, and sent it to Van Hoc in California in 1989.  Nguyen Xuan Hoang (who took over Mai Thao's editorial role in exile) read it, and the next thing my father told me was that the piece was published, first in Van Hoc and then The Ky 21 for the Vietnamese-speaking community in America. 

That was the moment my father  recognized me as a creative writer of the Vietnamese language, 

To him, I had arrived. 

***

The piece  was also the beginning of Mui Huong Que (The Cinnamon Fragrance), my first Vietnamese collection of creative writing published for the exile community. Van Nghe bought it, financed the printing and distribution, and paid me a lump-sum royalty.  I remember my father beaming: 

"You have earned your place in Vietnamese literature, even though we are now in exile," he said. 

I didn't at all realize what that meant to my father.  His pride and sense of accomplishment.  I took it all for granted. 


***

To many Vietnamese, the collection was unusual and controversial, because of its thematic treatment and daring nature of at least two short stories that had gender relations and sexuality in each, often misconstrued and misunderstood.  

I didn't care, and neither did my parents. 

If I had earned my place in Vietnamese creative literature that way, as my father had contentedly told me, with a twinkle in his eyes, such a place was due to the short piece below, one of the two memoirs in the collection. 

***

But there is something else, besides my memory of the twinkle in my father's eyes.  

In retyping this short piece, my father had suggested to me two conceptual additions to the text.  He felt I should mention the river, and then the universe.  He even mentioned Neil Armstrong, the first American to walk on the moon.   What did that have anything to do with me?  \

Of course it did.  I should have known better. 

It was July 1969, more than a year after the 1968 Tet Offensive, when Apollo 11 landed on the moon, and Armstrong made history that summer, after I had entered junior high school in Saigon.  Prior to the Tet Offensive, my father had made a trip to America as a delegate representing South Vietnam's Minister of Education and Culture. His job was to study Medicare and Social Security so that  the Ministry could help the Prime Minister implement a similar program for the old in South Vietnam.  My father had taken home a black-and-white 11-inch television.  That was our treasure, as we moved into our first house in the Republic.  My father's plan was to open up our front door so that all the children in the neighborhood could come in to watch TV.  but the Tet Offensive delayed our plans.  So, that summer of 1969, my father opened our doors and the kids came in to watch the greatest news of all:  man had reached the moon.  Two American men were walking the surface of the moon!  

I, too, was a kid like the rest of the audience from the neighborhood.  We were used to believing in the Vietnamese folk tale: that on the moon, there existed a tall and bushy banyan tree, the cay da.  A little boy named Thang Cuoi sat underneath the tree.  Together with the beautiful fairy named chi Hang, Miss Lunar, Thang Cuoi inhabited the Moon.  

Not any more after that night when all the kids and I and my siblings glued our eyes to my father's 11-inch TV set.  It was a Sony, I still remember, our first television.  There was no more Thang Cuoi the little boy who slept underneath the shade of the banyan tree, or the beautiful Chi Hang Ms. Lunar who danced her fluttering silky sleeves over the sleepy head of Thang Cuoi.  All fantasies and fables were gone as Armstrong and his cohort walked their first steps... 

Why in the world did my father mention Armstrong for my short piece?  I dimissed the idea. My father must have stretched his imagination.  He was thinking far too much about our house and the memories of our previous life in Saigon.

*** 

 So, as he started to explain, I stopped him and quickly turned down his suggestions.  Back then, I was still on this blinding path of Americanism. I wanted to extract myself from any parental influence on my thought process, although I had cried for the past -- my life with my family in Vietnam, and had entrusted to my father my  first peace of creative work written in our mother tongue since the fall of Saigon. 

 Like a fool, I gave my father no chance.  No mentioning of Neil Armstrong in this piece, Daddy. 

He stopped talking, and silently accepted my rejection.   

***

I found out, later, the reason why my father mentioned Armstrong.  It had something to do with his love and exposure  to Vietnamese creative literature.  The motif.  The symbolism that triggered his love. I learned far too late that his literary experience with the Vietnamese language centered around stars, galaxies, and the mysterious universe. 

***

Today, my father is dead.  

After his funeral, in the papers he left in his room, I found a copy of his book published in Saigon in 1970:  "An Anthology of Vietnamese Creative Literature."  He had used this anthology as a textbook in the art of translation as a way to teach English as a second language to college students in his class. The young men in his class at the Faculty of Letters, University of Saigon, would have to go to the battlefields unless they passed his exam, because English as a Second Language was an important subject for the Faculty of Letters.  My father had returned to Saigon for a visit in the early 2000s, and had found a copy of his textbook at somebody's house.  He repurchased it from the owner and took the copy back to the U.S.  

The book had found its author. Just like that. Coincidence. At random.  Ir simple pre-destiny. 

The book seemed to wilt in my hands.  The pages were so old they had turned yellow and even brown, as though they could crumble under my touch.  But they endured amazingly, as though they were just waiting for me to read them.  

My father had selected what he considered to the best and most representative of Vietnamese modern prose for this textbook. Among the short stories he selected for his anthology was "The Illuminating Stars of Dieu"  written by South Vietnam's premier novelist, Mai Thao.  To my father, this short story  marked the talent and literary career of Mai Thao. The story was about the friendship between two young Vietnamese men.  They met each other through  their refugee experience running away from war zones during Indochina War of 1946 -- Ho Chi Minh had called for a national voluntary draft of young men to join his Viet Minh troops as soldiers to fight the French.  Of the two young men, Dieu was obsessed with stars.  He taught his new friend what stars meant to him.  When the war subsided, the two young men each  returned to their home.  Dieu visited his friend once, during which time, they talked more about stars.  And then the narrator received news that Dieu had died because of tuberculosis, the most prevalent killer of Vietnamese during such time.  

In English, the excerpt read as follows:

MY FIRST STARS

At the age of seventeen, I spent a good deal of time looking at stars.  I called them "The Illuminating Stars of Dieu.   I will explain later why I always recalled those stars as memory of my youth and the war of our time.  During that time, we were taking refuge of Hien street, in the thatched boarding house of the old village Bang. That was our abode. The small spot in the garden near the pond became our astronomic observatory. We went there to sit every night. Our young and naive souls opened dreamy paths to the peak of the sky.  The manuscript of my first poems, with its foreword written by Dieu, was never printed eventually, but during such time, we gave it a title: The Stars of my Horizon.  Those first poems of mine were written during the late hours of endless provincial nights under a small lamp, while we both knew that out there, there was a war awaiting us.  The virginally white pages of the manuscript that awaited my words consisted of space as immense as the universe of stars.  As I composed and Dieuy wrote down the words to fill that space, we felt as though we were travelling to reach those stars above us.  We used to go back to the boarding house very late at night.  Icy night.  A thin wattle. The leaves and flowers in the garden emanated a mysterious scent.  The exotic perfume of our paths.       

I flipped through the pages of the Anthology and found stars mentioned in other literary excerpts written by other nationally known writers of South Vietnam.  In a passage written by Doan Quoc Sy, the writer called the Faculty of Letters, University of Saigon, the flower of the universe. It was the leading star, Sao Bắ Đẩu, for nation-building, the center of thoughts for the people. 

In another passage written by Vu Trong Phung, the best-known realist novelist of colonial time, the main character, an orphan, declared the most quoted sentence in Vietnamese literature :  "I was born under an unlucky star."  (Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu...)

In another passage written by Toan Phong, the Vietnamese pilot-writer the equivalent of St. Exupéry, the author described his night flight, when the day yielded into night time, and the lights of the landing track seemed to compete with emerging stars over the pilot  ̣ 

Stars, stars, and stars...

The best of Vietnamese prose in almost 100 year, written in the new national language using the Roman alphabet, a product of Christianity and French colonialism. 

My father's love and his world. 

***

 Among his papers, I also found the two concepts he had written down as suggested additions to my piece about my grandmother's floating coffins.  

The additions were brilliant, because my father was brilliant, but it was too late for me to tell him this.  

The old culture taught us Vietnamese to be humble. but I no longer want to be humble now. I want to tell the world that my father was brilliant.  In fact, I think that every Vietnamese American child who was blessed enough to know of his or her father's work in the old country should be entitled to say his or her father was brilliant.     

I am so sorry Dad, for my stupidity in  rejecting the two additions that represented your brilliance.

The twinkle in your eyes when you recognized me as having earned my place in Vietnamese literature, in exile. 

The brilliance of your stars. 

***

Back to my short piece below.  

I have added the two additions my father made to my piece, making it anew as of today, in 2023, in my father's honor.  The two additions are bold-faced.  The piece as a new name.  

Here it is, Daddy, my renewed piece, with your two additions, bearing your fingerprints, footprints, and fruits of your thoughts,  wherever you are now, out there, waiting for our reunion: our family, our roots, together again, on our river, and among our stars:


Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm: 
câu chuyện cuả dòng sông và cuả những vì sao

Đau đớn thay phận đàn bà...
Nguyễn Du

(c)DNN 1998,
from the back cover of 
"Mùi Hương Quế"


Người đàn bà đẹp đầu tiên tôi gặp trong đời là bà ngoại tôi. Khi tôi có trí khôn thì bà ngoại tôi đã ngoài sáu mươi tuổi. Ở tuổi đó, người bà vẫn thẳng, tóc dài gần chấm đất, tuy đã muối tiêu nhưng vẫn còn óng ả, lướt thướt. Bà có chiếc mũi dọc dừa, gò má cao, cặp môi mỏng và cong, rất hiếm thấy trên những khuôn mặt phụ nữ thuần túy Việt Nam.

Bà ngoại tôi pháp danh là Tĩnh Tâm. Tên thật của bà là Hương Quế. Xứ Huế đã đặt cho đàn bà những cái tên đẹp lạ lùng: Yên Chi, Dạ Khê, Tiểu Bích, Tú Thiềm, Phiến Tuyết, vân vân.

Mọi người chung quanh cho rằng bà ngoại tôi là một người đàn bà khó tính, khắc nghiệt và lạnh lẽo Bà có một chứng bệnh không bác sĩ nào chữa được. Đó là bệnh nóng cổ. Cổ bà nóng và rát, làm bà ray rứt, khó chịu, ăn ngủ không được, người đâm bẳn gắt. Bà ngoại tôi rất chiều con cháu, nhưng hay la mắng, rầy rà gia nhân. Mẹ tôi là con độc nhất của bà. Gả mẹ tôi cho ba tôi là người Bắc, bà ngoại tôi luôn luôn mang nỗi buồn phải xa đứa con một.

Tôi chưa hề thấy bà ngoại tôi khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Bà ngoại thích coi cải lương, say mê. Nhiều khi xúc động, khóc sụt sùi. Con người tình cảm ấy không thể nào khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Khi bà la mắng người làm, giọng bà như độc thoại, buồn như một điệp khúc than thở, không hề có tính cách đay nghiến của một người chủ thiếu lòng nhân. Lúc về già, người độc nhất mà bà cằn nhằn là ông ngoại tôi. Nhiều khi không duyên cớ. Ông ngoại tôi người nhỏ bé, tính vui vẻ, hồn nhiên. Bà con gọi đùa là Lão Ngoan Đồng như trong truyện kiếm hiệp. Khi bà ngoại tôi càu nhàu, ông ngoại tôi chỉ phớt tỉnh, ngồi đọc báo.

Mẹ tôi kể cho tôi nghe cuộc đời bà ngoại. Bà chỉ có một người chị gái. Hai chị em con quan xứ Huế, gia đình phong lưu trưởng giả. Người chị gái, bà Ấm, lấy chồng đông con nên vất vả. Bà ngoại tôi lấy ông ngoại tôi là con quan, được đủ miếng ăn thì lại phải chịu những đau đớn khác.

Ngoài cảnh làm dâu trong chế độ gia đình phong kiến, bà ngoại tôi là một người mẹ xấu số. Đẻ ba con trai đều chết cả ba. Mẹ tôi thì èo uột, hay đau ốm. Bà ngoại phải đem cho chùa, đổi tên, cho thần thánh khỏi bắt đi. Vì không có con trai, bà phải cưới vợ hầu cho ông ngoại rất nhiều lần. Mẹ tôi kể có lần bà phải nằm giường sát phòng hợp cẩn của ông ngoại và người hầu trẻ. Ông ngoại tôi là một thứ “ông phán” phong nhã, hào hoa, có không biết bao nhiêu vợ hầu vợ lẽ. Không có con trai, bà ngoại tôi phải nuôi con nuôi, hoặc con trai của những người vợ hầu. Những người con trai này lớn lên (trừ người con út) đều phụ công nuôi dưỡng của bà ngoại tôi mà đi.

Thuở nhỏ tôi không hiểu được lòng ưu uất của người vợ lớn là bà ngoại tôi, cũng như nỗi cô đơn của bà. Ở tuổi thơ ấu, tôi không hiểu được căn bệnh nóng cổ của bà. Mẹ tôi bảo bà tưởng tượng ra bệnh. Tôi thì cho rằng bà nóng cổ vì hay hút thuốc Cẩm Lệ.

Tôi lớn lên trong lòng thương và tình quyến luyến của bà ngoại. Có lẽ tôi đã lây tính đa sầu, đa cảm, hay khóc thương phận người của bà. Tuy trí óc non nớt, tôi cũng biết bà ngoại là người hay phiền muộn. Bà thích tôi ngồi coi cải lương với bà, một điều mà bố tôi cấm đoán. Tôi tự cho mình là người bạn nhỏ của bà. Tôi tự nguyện lớn lên sẽ làm cô giáo, mua nhà ở Huế cho bà ngoại ở.

Tôi nhớ mãi có lần tôi bắt gặp bà ngoại tôi nhỏ lệ, không phải vì tuồng cải lương hay vì giận ông ngoại nước mắt bà thấm ướt mái tóc dài. Tay bà run rẩỵ Bà kể cho tôi nghe về một hình ảnh mà lâu lâu bà vẫn thấy trong một giấc mộng đã ám ảnh bà cả đời. Bà dặn dò tôi đừng kể cho ai nghe, kể cả mẹ tôi.

Trong giấc mộng ấy, bà ngoại tôi, người đàn bà đẹp xứ Huế mang tên Tĩnh Tâm, ngồi một mình bên một dòng sông tĩnh lặng. Có thể là dòng Hương Giang, có thể là con sông Bến Ngự, hoặc có thể là khúc sông chảy qua làng Cồn. Trên dòng sông, có những cỗ quan tài trôi từ từ, lặng lẽ.

Người đàn bà ngồi đợi để vớt những cỗ quan tài.

Giấc mộng chỉ đến đó thôi, rồi bà ngoại tôi tỉnh dậy.



Bàn tay nhỏ bé của đứa cháu gái là tôi lau nước mắt cho bà ngoại tuổi ngoài sáu mươi. Tôi không thấy sợ, chỉ thương bà ngoại tôi nằm thấy ác mộng. Cơn ác mộng lặng lẽ và im lìm, không tiếng động.

Càng lớn, tôi càng nhớ mãi về giấc mộng của bà ngoại tôi. Có lần tôi hỏi, “Ngoại có biết trong quan tài có gì không?” Bà lắc đầu, không nói. Cái lắc đầu của bà có nghĩa gì tôi không rõ. Bà không biết trong quan tài có gì, xác của người thân, xác của người lạ? Hay là bà lắc đầu vì không muốn trả lời câu tôi hỏi.

Tôi vẫn thắc mắc mãi tại sao bà ngoại tôi nằm mộng thấy quan tài? Tại sao bà mang nhiều phiền muộn? Bà tương đối là được sung sướng vật chất và đời sống được bảo đảm. Trong khi cả nước khổ cực theo chiến tranh, theo nạn đói năm Ất Dậu, theo cuộc kháng chiến chống Pháp và những ngổn ngang của lịch sử thì bà ngoại tôi vẫn may mắn làm người thiếu phụ quý phái đất thần kinh.

Năm mười lăm tuổi, tôi đủ thông minh để phỏng đoán là những cỗ quan tài trong giấc mộng tượng trưng cho những cái chết của ba người con trai bà. Không có con trai là thảm kịch của cuộc đời bà ngoại tôi. Có thể những cỗ quan tài ấy tượng trưng cho nỗi đau khổ của bà khi phải chứng kiến những cái chết của những đứa con trai nhỏ vì bệnh sài kinh. Chung là sự hủy diệt sức sống và lẽ an vui của đời bà. Không có con trai, bà sớm mất tư thế trong gia đình. Nghe chuyện, tôi cảm thấy bất mãn cái vô lý, vô nhân của một xã hội chuyên chế đã gây nên sự đau buồn cho bà ngoại. Đồng thời, giấc mộng của bà làm tôi suy nghĩ đến cuộc đời của những phụ nữ Việt Nam khác trong dòng họ tôi.

Trái với bà ngoại tôi, bà nội tôi không có một cái tên quý phái cuả xứ Thần Kinh. Bà nội tôi là con một cụ đồ hay chữ. Vì thế, tuy con gái không được đi học, bà tôi lại thuộc lòng Tam Tự Kinh. Bà thấp lùn, nước da trắng nõn, mặt tròn trịa, phúc hậu, tính tình đơn giản, nhu mì, không bao giờ bẳn gắt. Lấy ông nội tôi là người chủ ruộng, bà nội tôi vẫn phải làm việc vất vả, quán xuyến việc đồng áng, nhà cửa. Rồi hai ông bà bỏ hết của cải, ruộng vườn di cư vào miền Nam. Lúc mới vào Sài Gòn, bà tôi phải đi gánh nước thuê, hằng ngày phải dậy từ ba giờ sáng đi bán xôi rong để nuôi gia đình cho đến khi bố tôi được bổ đi dạy. Bố tôi bảo bà nội lùn xủn vì suốt đời phải gồng gánh bưng xách. Những gồng gánh bưng xách đã hủy diệt sức lớn trong xương cốt của bà từ thuở còn là thiếu nữ.

Càng về già, bà nội tôi càng say sưa kể lể những chuyện quá khứ ở miền Bắc Việt Nam. Bà là nạn nhân của tục tảo hôn. Bà bị gả cho một cậu bé trai lên bảy. Buồn tủi, bà trốn về nhà cha mẹ. Sau đó, bà lấy ông nội tôi là con nhà địa chủ. Bà trông nom tá điền, lại phải làm dâu, rồi cũng phải để ông nội tôi lấy vợ bé, và là con dâu trưởng, bà luôn luôn đứng mũi chịu sào, tảo tần sương gió. Sinh đẻ cả hơn mười lần, chỉ nuôi được năm. Trong cuộc chiến tranh Việt Pháp, người con gái đầu lòng của bà, cô cả chị bố tôi, bị tử nạn năm hai mươi tuổi. Cô cả là người phụ nữ học thư’c, nói tiếng Pháp thạ̣o, và là nữ y tá Việt Nam đầu tiên cuả vùng Việt Bắc.

Ngày còn là học sinh ở Việt Nam, tôi vẫn suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao trong cuộc đời bà nội tôi cũng có những cái tang đau khổ, những biến cố đánh nặng vào đầu óc, vậy mà bà nội tôi không mộng thấy quan tài. Hay là bà nội tôi cũng có nằm mộng đấy, mà không kể lể, khóc thương?

Chiếc quan tài ám ảnh tuổi thơ của tôi cùng với hình ảnh những người đàn bà khác trong họ. Tôi có người cô họ, tên Oanh, năm hai mươi hai tuổi thì chồng chết trận. Cô than khóc, vật vã, gào thét, vất vưởng, mắt lạc thần cả mấy năm sau đó. Trong họ hay bảo: cô khật khùng vì đau khổ. Tôi có người dì họ, tên Thanh, chồng chết đã lâu. Bà ngồi bán nón ở chợ Đông Ba, Huế để nuôi con. Đứa con trai của bà chết trận. Quan tài của con chở về, bà cũng khóc lóc, vật vã, khật khùng như cô Oanh. Chứng kiến nỗi đau khổ của họ, tôi vẫn tự hỏi không biết rồi họ có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi lềnh bềnh trên sông như bà ngoại tôi?

Cũng năm mười lăm tuổi, tôi đọc cuốn Phái Thứ Hai (Deuxième Sexe) của nhà văn Pháp Simone de Beauvoir, tình nhân của triết gia Jean Paul Sartre. Trí óc tôi chưa đủ phát triển để hấp thụ hết cái thuyết tranh đấu cho nữ giới trong tác phẩm của de Beauvoir. Nhưng tôi đã đủ lớn không để nhận thức rằng trong tác phẩm của nhà văn nữ này, không có cái ám ảnh đau thương của những cỗ quan tài như trong giấc mộng của bà ngoại, không có những gồng gánh, bưng xách đến lùn cả người như trong đời bà nội tôi, cũng không có những cỗ quan tài bọc cờ và những cơn vật vã, khật khùng của cô Oanh và dì Thanh. Những phụ nữ Âu Mỹ tranh đấu để được quyền. Còn những phụ nữ trong gia đình tôi phấn đấu để sống còn, và sống là sống cho người chứ không phải cho mình. Tôi tự hỏi tại sao trên mặt đất này mà những mẫu người đàn bà được Simone de Beauvoir phân tích là tác phẩm của trí tuệ và ý thức, còn những người đàn bà thân yêu trong đời tôi là tác phẩm của nước mắt chảy ngược vào lòng?

Tháng tư năm bảy lăm, bố tôi mang vợ con, cha mẹ và anh em vào phi trường Tân Sơn Nhất để đợi máy bay sang Mỹ. Dĩ nhiên là ông bà ngoại tôi ở lại Sài Gòn chứ không thể nào theo con gái và gia đình con rể. Cuộc ly biệt quá ngắn ngủi, vội vã. Để tránh xu’c động, ông ngoại tôi lánh mặt con gái, con rể, và các cháu. Mẹ tôi cũng tránh vương vấn chia tay với ông bà ngoại, và tôi cũng thế. Tôi nhớ mẹ tôi gọi bà ngoại vào trao tay hòm chìa khóa thay thế lời từ biệt.

Bố tôi dùng xe hơi chở gia đình vào phi trường. Không hiểu vì sao, tôi tình nguyện lái Honda PC theo sau. Tôi nhớ mãi hình ảnh bà ngoại tôi đứng ngơ ngác bên cửa sổ sân nhà, không dám hỏi chuyện để tránh xúc động khi những người thân của bà đang tíu tít xưa xoan cho cuộc hành trình vô định. Bà đội nón lá như lúc đi chợ, tóc muối tiêu búi đàng sau, đôi mắt buồn như muốn khóc.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy bà ngoại tôi.

Bây giờ tôi đã lớn, tôi không làm cô giáo. Tôi không ở Huế và bà ngoại tôi đã chết.

Một buổi chiều mùa hạ năm bảy chín, tôi theo một người bạn trai Mỹ làm nghề phó nhòm, muốn chụp ảnh tôi để “lăng xê” tôi làm người mẫu. Tôi gọi điện thoại về nhà, thì bên kia đầu dây mẹ tôi tức tưởi: “Con ơi, bà ngoại chết rồi!”. Tự nhiên trong bụng tôi đau nhói như có mũi dao đâm. Tôi không khóc nhưng lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác gọi là “đau như đứt ruột”.

Bà ngoại tôi chết trong đau đớn vì bạo bệnh mà không đủ thuốc men. Bà mất đi không một lần thấy lại đứa con gái thân yêu, con rể, và các cháu ngoại, nhất là đứa cháu đã chia sẻ những giọt nước mắt với bà.



Cái chết của bà ngoại làm tôi thấm thía thêm ý nghĩa “sinh ly tử biệt.” Lần cuối cùng nhìn bà ngoại buổi chiều tháng tư năm bảy lăm, khi bà tần ngần đứng bên cửa sổ nhìn con cháu ra đi là ý nghĩa nỗi khổ “sinh ly”. Và tin bà chết ở bên kia bờ đại dương là ý nghĩa niềm đau “tử biệt”. Tôi tự an ủi nghĩ rằng tôi không phải là người độc nhất thấm thía cái đau sinh ly tử biệt. Mà đó là cái đau chung của cả một dân tộc kém may mắn trên bản đồ thế giới. Nô lệ và chiến tranh. Một cơn lốc chính trị xoay chuyển cả nguồn gốc của một văn hóa nghèo, chậm tiến. Trong phần tư thế kỷ mà hai lần di tản cả triệu con người, vượt đường trường, vượt đại dương.

Tôi vẫn tự hỏi trong thời gian chúng tôi ở Mỹ, và bà ngoại sống thiếu thốn ở Việt Nam, không biết bà có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi sông, và bà có thấy những gì bên trong cỗ quan tài đó ? Điều đó bà chưa hề hé môi chia sẻ với tôi. Hay với bất cứ ai, kể cả chồng con.

Trong những năm tháng này, cuối thập niên tám mươi chuyển sang thập niên chín mươi, tôi có một hồi rảnh rỗi trong nghề nghiệp để đọc lại văn chương Việt Nam. Lần đầu tiên, tôi ngồi đọc hết mấy ngàn câu Chuyện Kiều, để ngẫm nghĩ về nước mắt, định mệnh, và sự phấn đấu của cô Kiều, về thân phận người đàn bà mà Nguyễn Du thương xót như thương xót chính thân phận tài hoa kẻ sĩ, và nỗi cô đơn tột độ của người thức giả:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như


Cũng năm đó, vô tình tôi đọc một truyện ngắn của bà Bùi Bích Hà, làm tôi nhớ giấc mộng của bà ngoại. Tôi không biết là truyện có thật hay không? Nhà văn kể lại truyện của một người đàn bà Việt Nam đi vớt xác con trên đường vượt biển. Truyện làm tôi bàng hoàng, nhắc tôi nhớ hình ảnh người đàn bà chịu đựng, ngồi một mình chờ những cỗ quan tài lềnh bềnh trên sông. Những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.

Tôi đi tìm một cuốn sách tâm lý giải mộng của Tây phương. Trong cuốn sách đó, tác giả bảo nằm mộng thấy quan tài là cảm giác bất an của người bị đe dọa bởi thiên tai, đại họa, sự trừng phạt vô cớ của định mệnh, hoàn cảnh, ở ngoài khả năng và quyền hạn của con người, không đo lường được.

Nhưng trong giấc mộng cuả bà ngoại tôi, ngoài những cỗ quan tài, còn có dòng sông. Tôi bắt buộc phải nghĩ đến những dòng sông, mang tất cả vật thể từ nguồn ra biển. Trên những dòng sông, có rong rêu, có phù sa, có thây ma, có xác người, và cả những cỗ quan tài thô sơ, đốn từ lòng cây trong rừng, được vội vã thả trôi để có thể theo sông về đến bến cố hương thay vì chôn vùi nơi đất lạ̣ quê người. Tất cả đều trôi ra biển. Ra với đại dương. Và về với đại dương.

Muà Đông cuối năm đó, tôi ra đứng bên bờ Đại Tây Dương, ngắm tượng Nữ Thần Tự Do khi thành phố Nữu Ước chưa lên đèn. Tôi đứng đấy cho đến khi trời tối xẫm và bầu trời bắt đầu xuất hiện những vì sao.  Gió lành lạnh. Và hơi nước lành lạ̣nh. Tôi ngửng mặt nhìn lên trời, màu xanh ngắt tuyệt vời đã tối dần thành màu đen thẫm như ́vạt áo dài nhung cuả bà ngoại t̀ôi ngày xưa.  Tôi ngước nhìn những vì sao phía trên bầu trời Nữu Ước đã lên đèn, mà nghĩ đến số phận cuả con người nhỏ bé.  Văn hoá cội nguồ̉n tôi hay tin vào những vì sao chiếu mệnh con người.  Tôi biết tìm đâu ra vì sao mang số kiếp đính mệnh cuả bà ngoại tôi?  Vì sao nào ̣đang chờ đợi tôi?   Tôi nghĩ đến sự̣ huyền diệu mông lung cuả tạo hoá, bên cạ̣nh cái hùng vĩ, đồ sộ và lồng lộ̣ng cuả khoa học phát minh, khi những phi hành gia cuả Mỹ và Nga như Louis Armstrong đã vượt ra khỏi bầu khí quyển, từ không gian không trọng lượng mà nhìn về quả điạ cầu, bỗng nhỏ bé hẳn đi như thân phận li ti cuả tỷ tỷ tỷ con người chen chúc tranh nhau trên mặt đất.


Tôi quay lại nhìn đường chân trời rực rỡ cuả đô thị Nữu Ước, lấp lánh trong màn ̣đêm như cạnh tranh với những vì̀ sao ở tấn đỉnh cao cuà̉ màn đêm. Quên đi thời gian, tôi đứng lặng trước thành phố đã lên đèn. Hình ảnh người phụ nữ cầm chiếc đuốc soi bờ đại dương sừng sững một mình ở cưả biển, để luôn luôn chào đón nhân loại khốn cùng đang đổ x̀ô về cứu cánh cuà đường ̣̣đi không đến, ngày và đêm, tự nhiên làm tôi nhỏ nước mắt.

Tôi không biết mình nhỏ nước mắt vì ai, cho ai. Tôi đâu dám bắt chước con người tài tử Nguyễn Du khóc người ba trăm năm trước để hỏi người ba trăm năm sau. Có lẽ tôi khóc vì tôi nhớ lại cuộc di cư ngày nào. Tôi nhớ đến khuôn mặt đẹp và ánh mắt sầu muộn của bà ngoại tôi. Giấc mơ hồn nhiên của tuổi thơ, sẽ làm cô giáo nuôi bà ngoại ở Huế, tôi đã bỏ mất. Bà không còn chỉ là bà ngoại, mà là hình ảnh Tĩnh Tâm, người phụ nữ sinh trước tôi hai thế hệ. Hình ảnh bà mang tôi về tuổi thơ xứ mẹ. Hình như tôi khóc vì trong lòng tôi cũng mang hình ảnh những cỗ quan tài như trong giấc mộng của Tĩnh Tâm. Vì tôi mang nặng một nơi chốn đã đi vào tiềm thức tôi, một nơi chốn mà thân phận đàn bà là tiếng kêu rên xiết trong những tập tục và thành kiến văn hóa bóp kẹp con người, nơi chốn của một cuộc chiến tranh tức tưởi, và những hỗn loạn lịch sử vời vợi thương đau, đã gây nên sự phá sản, không phải chỉ vật chất, kinh tế, mà e còn lan sang địa hạt tinh thần.

Tôi tự hỏi có người phụ nữ Việt Nam nào nhạy cảm, là nạn nhân của xã hội chiến tranh đó, mà không mang trong lòng những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm? Tôi may mắn sinh ra trong một thời đại không phải gồng gánh, bưng xách như bà nội tôi, không phải cưới vợ hầu cho chồng như bà ngoại tôi, không phải là nạn nhân của tục tảo hôn, không phải tủi sầu vì không có con trai. Tôi may mắn không phải đi vớt xác con, đi nhận xác chồng, xác con trai như những người bất hạnh của cố hương đầy đau khổ.

Tôi tin vào thuyết tiềm thức tập thể của nhà tâm lý học Carl Jung. Cho nên tôi đứng đó, đối diện tượng Nữ Thần Tự Do, bên bờ biển Đại Tây Dương, là một người đàn bà di dân đến từ nước Việt Nam nhỏ bé, trước ngưỡng cửa thế kỷ hai mươi mốt, nhớ đến hương hồn của bà ngoại và nghe tiếng kêu khóc của những người đàn bà Việt Nam xấu số. Tôi đến Mỹ khi còn là đứa bé gái hăm hở trước cuộc đời. Cuộc di cư đã cho tôi lối thoát và cơ hội để áp dụng sự phân tích của Simone de Beauvoir vào đời sống của chính mình. Nhưng tôi vẫn nhỏ nước mắt, hướng về Tây phương và quay lại Đông phương, thường tự hỏi mỗi nơi sẽ đem lại những gì cho tính nhạy cảm và cái tiềm thức văn hóa trong tôi. Nước mắt tôi vẫn nhỏ, cho dù bề ngoài tôi cứng rắn, vì tôi đã nghe, đã chứng, đã xót xa trong lòng về những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.

Dương Như Nguyện ̣(c)1988
Trích từ Mùi Hương Quế, xuất bàn đầu năm hai ngàn (c)2000, bời Nhà Xuất Bản Văn Nghệ (Orange County, California)  
Renewed (c)2023 (Houston, Texas)


 ENGLISH TEXT  












Wednesday, November 6, 2019

IMAGE OF Từ Hải IN NG.UYEN NICOLE DUONG'S FICTION

Featured bilingual creative writings by author Uyen (Wendy) Nicole Duong

CHÍN CHỮ CỦA NÀNG


NOTE FROM THE AUTHOR: In its original English version, Her Nine Words is a chapter in the novel Mimi and Her Mirror (AmazonEncore June 2011). The protagonist recalled her earlier days in America after the fall of Saigon in 1975. During those earlier days of the Vietnamese settlement experience, she met her counterpart, a disillusioned Vietnamese guru whom she called The Crazy Man. The following excerpt described the protagonist’s performance as Portia from Shakespeare’s The Merchant of Venice, after she had learned of what had happened to her Crazy Man (Chàng Khùng in the Vietnamese version). COPYRIGHTED 2007 by Uyen Nicole Duong/Duong Nhu Nguyen
The Vietnamese version was the translation by the author's father, Dr. Dzuong Duc Nhu.

______
...

HER NINE WORDS -- CHÍN CHỮ CỦA NÀNG
Dương Như Nguyện
Dịch Giả:  Dr. Dương Đức Nhự

(Trích từ truyện ngắn đầu trong tuyển tập truyện ngắn cùng tên, Chín Chữ của Nàng (Văn Mới: 2005). Truyện cũng là một chương trong tiểu thuyết tiếng Anh Mimi and Her Mirror của Dương Như Nguyện (AmazonEncore, 06.2011), kể  như truyện tiếp nối (sequel) của Daughters of the River Huong (Những Người Con Gái Cuả Sông Hương).(Bản dịch này dùng cách đánh vần mới)

-----

....
Mùa thu 1976, Hội Sinh Viên Việt Nam tại Southern Illinois State University (SISU) tức Đại Học Nam Illinois có chừng hai chục hội viên. Đa số học ngành kĩ sư hoặc kế toán, và có học bổng từ hồi mới sang Mĩ trước 75. Sau khi Sài Gòn sụp đổ, phải cần cả một năm trời để họ điều chỉnh tình trạng di trú, thay đổi chương trình tài trợ sinh viên, ổn định tinh thần và tiếp tục đời sống.

Lúc đầu không ai để ý, nhưng dần dần trong Hội ai cũng biết chuyện Chàng Khùng. Như một đạo sĩ kì dị, hắn thiết lập bản doanh tại hành lang tòa nhà Krost Hall, nằm giữa Trung Tâm Sinh Viên và Tòa Nhà Hành Chánh Woody. Hắn ngồi trên một tấm chăn, nhiều khi hắn đứng, khua chân múa tay và lẩm bẩm một mình. Quanh hắn là những truyền đơn và quảng cáo về tự do, dân chủ trong khối Thế Giới Thứ Ba.
Trong nhóm sinh viên Việt Nam, mọi người đồn đại về cuộc đời hắn. Trước kia, hắn từng là một sinh viên tiến sĩ tại phân khoa Khoa Học Chính Trị. Hắn xuất thân từ một gia đình cách mạng. Cha hắn là một anh hùng trong kháng chiến chống Pháp.Ông chết trận tại Điện Biên Phủ. Người anh cả nuôi hắn. Ông này là Chánh Sở An Ninh phủ Tổng Thống của chánh phủ Sài Gòn. Một hôm, ông đưa người em ra máy bay, và kế đó, người thanh niên này đã có mặt tại SISU, nơi có Trung Tâm Việt Học. Ai cũng biết tham vọng của Chàng Khùng là về nước tranh cử chức vị. Hắn không dè dặt, giấu diếm giấc mơ này. Mục đích của hắn là trở thành Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa.

Nhưng đó là khi còn chưa mất nước, còn có một nước để làm Tổng Thống.

Mùa thu 1975, anh hắn ở trong trại tù cải tạo, và chàng Tổng Thống-sẽ-thành của một nước cộng hòa ở Đông nam Á thấy mình trở thành Phó Giám Đốc nhà hàng ăn Steak & Ale trên con đường từ phi trường Mirian, Illinois về Đại Học Nam Illinois.
Mùa thu 1977, hắn từ bỏ luận án tiến sĩ và việc làm ở Steak & Ale. Tòa nhà Krost Hall, nơi có phân khoa Khoa Học Chính Trị, trở thành trú sở thường xuyên của hắn. Hắn quyên tiền đóng góp để tái thiết một nước Việt Nam mới, và loan báo cho quần chúng sinh viên biết rằng cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam chưa chấm dứt.
Lần đầu tiên tôi gặp hắn ở Krost Hall, hắn đưa cho tôi một tờ truyền đơn. Tờ truyền đơn đặt câu hỏi: “Cuộc chiến ở Việt Nam thuộc về Mĩ hay thuộc về giai cấp trung lưu của Nam Việt Nam?”
Tôi hỏi:

“Ai là giai cấp trung lưu của Nam Việt Nam?”
Hắn nhìn tôi, rõ ràng là hắn khám phá ra những đặc điểm di truyền trên mặt tôi. Hắn trả lời giản dị, có lẽ quá giản dị:

“Cô và tôi.”
Sinh viên tò mò đứng thành một vòng tròn quanh hắn. Cứ như thế kéo dài mấy tháng đầu. Rồi người ta bỏ mặc hắn. Chẳng bao lâu, đa số sinh viên ném truyền đơn của hắn vào thùng rác ngay trước mặt hắn. Cứ như thế được một năm. Và hắn trở thành một cảnh thông thường trước lối vào Krost Hall.
Cứ mỗi lần đi cạnh lề tòa nhà Krost Hall là tôi thấy hắn. Chúng tôi nhìn nhau. Một hôm, tôi vứt tờ giấy bạc một đô-la vào cái hộp của hắn, hắn chăm chú nhìn tôi. Với chiều cao 5 bộ 11, hắn cao hơn hầu hết những người Việt Nam khác cùng thế hệ. Hắn cũng đen hơn và vạm vỡ hơn. Cặp mắt sáng, làn da nâu ánh, hai bàn tay to, xương xẩu, rắn chắc, với những ngón tay dài, vuông đầu. Tóc hắn cắt rất ngắn. Cằm vuông, đầy đặn, đôi môi mím chặt, cái mũi nhọn khiến tôi nhớ đến chàng tài tử Mĩ đen Sidney Poitier.  Một năm trước khi Sài Gòn mất, tôi đã coi một phim tại Hội Việt Mĩ về một ông khách da đen tới dùng cơm nhà cô bạn gái. Từ đó, tôi không quên bộ mặt của người tài tử da đen này.
Chàng Khùng là thể hiện Việt Nam của Sidney Poitier. Thắm thiết, mạnh mẽ, và công chính. Hắn có thể trở thành một nhà cách mạng. Một nhà lãnh tụ.
. . . .
“Tôi phải gọi cô là gì?” Hắn hỏi.
“Tôi chỉ là Mi. Mi.”
“Bây giờ, hãy nói chuyện phát-âm-học. Trong tiếng Việt và tiếng quan thoại, ‘Mĩ’ nghĩa là đẹp. ‘Mĩ’ cũng có nghĩa là nước Mĩ. Nước Mĩ đẹp. Với một thanh điệu khác, Mĩ khiến tôi nhớ đến Mị nương, tên của nàng công chúa con vua Hùng.”
Tôi gật đầu. Tôi biết “Mi” nghĩa là gì.
“Hay cô có thể là Michelle. Michelle ma belle. Ce sont les mots qui vont très bien ensemble. Très bien ensemble.” Hắn nói tiếp.
Thì ra Chàng Khùng là một người mê nhạc Beattles. Giống như mọi người khác.
Tôi bỏ hắn quay đi, vừa đi vừa cảm thấy khổ sở. Không còn nước Việt Nam Cộng Hòa nữa. Nó đã bị thay bằng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa. Ở đó, không có người Việt Nam nào bỏ phiếu cho Chàng Khùng, cho dù có một cuộc tổng tuyển cử xẩy ra, nhất là một chàng chỉ đứng phát truyền đơn ở Nam Illinois.
*́́
Những tờ giấy bạc một đô-la của tôi tiếp tục rơi vào trong cái hộp của Chàng Khùng. Một hôm, hắn tuyên bố:
“Cô có muốn thành một Đệ Nhất Phu Nhân không?”
“Anh nói cái gì?” Tôi giật mình hỏi.

Hắn đã nói ra giấc mơ của tôi. Sinh ra trong một xã hội Khổng Mạnh, tôi không có hi vọng gì trở thành một nữ Tổng Thống. Cho nên tôi đành chịu làm Đệ Nhất Phu Nhân vậy. Tôi không bao giờ nói điều này ra với bất cứ một ai. Giấc mơ ấy, dù quái dị, đã chết đi khi Sài Gòn sụp đổ.
“Tôi muốn lấy cô làm vợ!” Hắn nói.
“Anh thật là khùng.”
“Đó chính là điều người ta nói về tất cả những vĩ nhân không chịu làm người tầm thường. Tôi nói thực đấy, tôi muốn cưới cô.”
“Tại sao?
“Cô thực sự là một Đệ Nhất Phu Nhân. Một thứ Đệ Nhất Phu Nhân. Như tôi vậy.”
“Tôi thành hôn bây giờ thì còn quá trẻ.”
“Người ta không bao giờ quá trẻ để biết yêu và để được yêu.”
Nói đến tình yêu làm tôi càng thêm buồn, biết rằng cha mẹ tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một thanh niên không có việc làm, một gã vô nghệ. Tôi nhức nhối bước đi, ý thức rằng hắn đang nhìn theo.
Từ bữa đó trở đi, mỗi lần tôi đi qua Krost Hall, hắn lại nháy mắt với tôi:

“À, chào Đệ Nhất Phu Nhân của tôi!”
*
Thời tiết trở lạnh hơn, khóa học tiếp tục, và mùa thu đang tới gần. Lá đang đổi màu.
Chàng Khùng không đứng nữa. Hắn ngồi xuống nền đá, quấn mình trong tấm chăn bẩn. Một bữa kia, hắn lại bảo tôi:
“Tôi muốn cưới cô làm vợ. Cô là người đàn bà đẹp của tôi.”
“Tại sao anh lại làm như vậy?” Tôi sắp sửa khóc.
“Làm cái gì hả cô?”
Tôi trỏ vào những tờ truyền đơn. “Chúng chẳng có ý nghĩa gì.”
“Cô đừng bao giờ nói với tôi như thế.”
“Xin lỗi. Tôi chưa đầy hai mươi tuổi. Tôi không biết gì nhiều.”
Tôi nhìn gần hơn vào mặt hắn. Rõ ràng đó là biểu hiện Việt Nam của nét mặt Sidney Poitier. Cặp mắt nẩy lửa, mép môi mím chặt tỏ ra là một người thẳng thắn, bướng bỉnh, chịu chấp nhận số phận, và nguồn cội, với niềm kiêu hãnh tuyệt đối.
“Tại sao tôi lại phải lấy anh?” Tôi thay đổi câu chuyện.
“Vì tôi biết cô có một cái bụng đẹp và một cái rốn gợi cảm.”
Tôi đỏ mặt. Dĩ nhiên, là một thiếu nữ đoan chính, khiêm cung, tôi như bị điện giật, và cảm thấy bị xúc phạm. Từ khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đã trở nên dè dặt và lặng lẽ hơn. Nam giới lấn tới luôn là một đe dọa đối với tôi.
“Da cô mịn láng, với một hàng lông tơ nhỏ chạy từ rốn tới bụng dưới…” Cặp mắt hắn nhắm lại. Hắn đang mơ màng trong thế giới riêng của hắn, và sẽ chẳng để ý nhiều tới phản ứng của tôi.
“Anh thật khùng.” Tôi thở dài.
“Cuộc đời còn có gì đáng sống hơn là theo đuổi một chính nghĩa và rúc đầu vào bụng người đàn bà mình yêu mà hôn cái rốn của nàng!”
“Anh không yêu tôi. Anh chỉ vì anh thôi.” Tôi bỏ chạy, vừa chạy vừa kêu lớn.
“Anh thô lỗ và vô trách nhiệm. Và anh đang đùa giỡn với tôi.”

Tôi thấy giận hắn, và thấy bị đe dọa bởi những nhận xét đầy cảm giác ̣“sensual” của hắn. Nhưng một cảm giác mơn man cứ kéo dài trên vùng bụng dưới của tôi mỗi lần tôi nhớ tới những gì hắn nói. Cảm giác ấy làm tôi bận tâm. Tôi quyết định không bao giờ cho hắn tiền ăn trưa của tôi nữa.
*́́**
Mùa thu tới trong vẻ đẹp bi thương, với lá vàng bay trong không khí lạnh. Khi đi bộ trong khuôn viên đại học, tôi quấn mái tóc dài quanh cổ. Bạn cùng lớp gọi tôi là “cô gái đông phương gầy ốm tóc quấn quanh cổ.”
Đã nhiều tuần tôi không đi qua Krost Hall. Vì tôi bận học. Rồi một bữa kia tôi phải đi qua khu rừng giữa Krost Hall và thư viện Morris để tới Tòa Nhà Truyền Thông và Nghệ Thuật. Để tập kịch. Ở phía bên kia khu rừng.
Trên những bậc thềm của Krost Hall, tôi không thấy Chàng Khùng nữa. Hắn đã đi rồi.
Không còn tấm chăn. Không còn những cuộc nói chuyện ngu xuẩn. Không còn truyền đơn hay quảng cáo. Không ai nhớ hắn cả. Cũng không ai để ý là hắn đã đi rồi. Đã có lần tôi nghĩ là người ta sẽ đặt hắn vĩnh viễn trên vỉa hè Krost Hall, như thế hắn sẽ thành một cơ chế. Như là cơ chế Krost Hall.
Tôi đứng ngay chỗ hắn vẫn đứng. Tôi ngơ ngác và bất ngờ cảm thấy mất mát. Tôi đi qua tấm cửa kính đúp. Vào Krost Hall. Ở bên trong, tôi lượm một tờ báo của trường đại học. Ngay trang đầu có một bài về Chàng Khùng. Hắn đã bị những nghi can vô danh đả thương. Cảnh sát đang điều tra.
Bài báo nói rằng hắn ta rất khỏe, và đã chiến đấu can đảm như một chiến sĩ, tuy nhiên thái độ anh hùng đó đã dẫn hắn tới bệnh viện, khu săn sóc khẩn cấp.
Bài báo nêu lên mọi giả thuyết. Đạo tặc ư? Không chắc, vì hắn không có gì trên người, và hộp tiền của hắn, đầy tiền cắc và những tờ giấy bạc một đô-la, vẫn nguyên vẹn. Thù hằn ư? Nỗi cay đắng của những cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam? Hay là những cha mẹ Mĩ mất con ở Việt-Nam đã trả thù những người tị nạn mới tới? Hay là đoàn viên hội “da-trắng-là-nhất” vẫn hiện diện không định danh được ở miền nông thôn Nam Illinois? Hay chỉ là hận thù cá nhân?
Dù sao chăng nữa, biến cố này đã xẩy ra trong một đại học thanh bình, tự do, bên ngoài một tòa trú sở của những phân khoa Lịch Sử, Khoa Học Chính Trị, Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Một biến cố như thế chưa bao giờ xẩy ra tại Nam Illinois và SISU thường vẫn ngủ yên.

Những kẻ tấn công có ý định giết chết hắn.
Bài báo tiếp tục nói về luận án dở dang của hắn. Hắn đã viết về cuộc chiến đấu chống thực dân và cộng sản tại Việt Nam và hắn xây dựng một mô hình tái thiết vùng thôn quê. Khai thác dầu hỏa dọc theo bờ biển. Xuất cảng gạo. Tiến đến hoàn toàn chấm dứt viện trợ kinh tế và quân sự của Mĩ, Nga, Tàu.
Hắn nói về việc xây dựng một giai cấp trung lưu mạnh, về tự do ngôn luận phải in sâu vào tâm trí người dân để trở nên một thói quen, một thái độ, một nếp sống. Đó là mô hình Mĩ muốn áp dụng vào Đông Nam Á đang phát triển?
Luận án này là công trình của một con người lí tưởng, bài báo kết luận.
***
Tôi rời khỏi Krost Hall và tiến về phía Tòa Nhà Truyền Thông. Tôi phải đi qua rừng để dự buổi tập kịch.
Mùa thu hiện ra trước mặt tôi. Một tấm nệm lá vàng, đỏ, và xanh vàng. Như một bức tranh tù túng, trong gió heo may buổi sớm, khu rừng đông lại ở phía trước.
Những hàng cây đứng im lặng, và vô vàn lá đang chờ đợi trong sự im lặng tuyệt đối đó trong khi tôi giẫm bước lên chúng. Những tiếng động rất nhỏ vang ra khi làn gió thổi vào lá. Những tiếng động này trở thành ròn rã, vỡ gãy khi tôi giẫm giày lên trên đất ẩm.
“Lá đang khóc,” tôi thầm nghĩ, vừa nghĩ vừa nín thở.
Giữa những lá vỡ, tôi bắt đầu trông thấy cặp mắt đen, nảy lửa của chàng sinh viên cao học vỡ mộng đã quyết định bỏ dở những năm dài theo đuổi sự học và đã gọi tôi là “Đệ Nhất Phu Nhân” của chàng.
Tôi muốn đứng giữa rừng, chôn chân vào xác lá vỡ. Lạc hướng và bối rối. Đầu óc tôi tràn ngập những tư tưởng. Tôi đã tìm được tự do từ một cuộc chiến tranh, thoát khỏi một chế độ. Tôi chỉ tìm được một nhà tù mới trong sức nặng của văn hóa, bóng dáng cuộc đời tôi đã bỏ lại phía sau tiếp tục ám ảnh tôi về ban đêm. Tôi mơ đang trở về nhà để khăn gói sửa soạn cho một cuộc ra đi đúng nghĩa. Có những cơ hội chào từ biệt những người tôi yêu, họ chúc tôi may mắn và hành trình tốt đẹp, thay vì một cuộc chạy trốn trong những chiếc máy bay chở hàng hay trong những ghe thuyền đánh cá.
Tôi mong muốn được tới những vùng đất rất xa, được tặng quà chào mừng, không có những người đứng sau những biểu ngữ “Duy có Tổng Thống Ford là muốn họ mà thôi.”
Tôi đã làm một cuộc hành trình qua đại dương và được gặp những chiếc lá đang đổi màu báo hiệu sự thay đổi mùa và bản chất vô thường của chính đời sống. Một ngày kia, khi đời sống và cái chết hòa làm một, chính tôi sẽ trở về với đất, hòa nhập với những chiếc lá trong vô tận ở dưới mặt đất, và lúc đó tôi sẽ đổi dạng biến thành không khí mùa thu. Duy lúc đó tôi mới đạt tới bờ bến tuyệt đối an toàn. Tuyệt đối tự do. Và vô tận. Một người tị nạn đến được nơi nương náu cuối cùng để có bình an.
Cho tới giờ phút cuối cùng ấy, thì tôi phải vượt khu rừng để đến với sân khấu.
Các sinh viên kịch nghệ đang tập kịch và dự tuyển cho vở Người Lái Buôn Thành Venice. Tôi là một sinh viên tị nạn mới từ Việt Nam tới và phải đóng vai của mình.
Tôi phải đọc phần của một nữ luật sư nhờ tài hùng biện mà đã cứu được người nàng yêu. Một người bạn cùng lớp cứ hỏi: “Bạn có chắc đóng kịch Shakespeare được không?”

*

Tôi vẫn lắng nghe tiếng khóc của những chiếc lá đang chết. Có lúc chúng thổn thức.
Chẳng khác gì sự rung động của trái tim tôi.
Một cơn gió mạnh thổi qua, và tất cả muôn vàn lá chợt thức dậy lần cuối cùng. Trước khi chết. Tiếng khóc của chúng cùng vang lên dồn dập mỗi lúc một nhanh hơn choáng đầy không khí.
Tôi níu chặt lấy vai, rung động vì tiếng nhạc của thiên nhiên. Nhạc cầu siêu cho những chiếc lá đang chết.

Đứng giữa rừng, tôi bắt đầu khóc. Vô cớ. Không có một lý do nào hết.

Những xúc cảm bùng nổ. Không cần thiết. Không can cớ. Niềm thất vọng của tôi càng lớn khi tôi không hiểu nổi những giọt nước mắt của chính tôi.

Tôi đến sân khấu Phân Khoa Kịch Nghệ Đại Học Nam Illinois như thế đó. Để đọc những lời của một vai trò khác hẳn với tôi, trong một ngôn ngữ mà một năm trước đó ở quê nhà được coi là một phần của chương trình ngoại ngữ. Tôi phải đóng vai đó trước một cử tọa còn nghi ngờ khả năng của tôi.
***
Tôi không bao giờ gặp lại Chàng Khùng nữa. Tờ báo đại học cho biết là sau khi ra khỏi khu săn sóc đặc biệt của bệnh viện là hắn biến mất. Rõ ràng hắn đã xuất viện trước khi những vết thương hoàn toàn bình phục. Hoặc giả có người bắt cóc hắn.
Đối với những sinh viên Việt Nam tại SISU, hắn trở thành một huyền thoại.
Tôi không bao giờ biết hắn thực sự là ai. Tôi là người Việt Nam và tin tưởng vào sự may mắn của con số chín. Tất cả những việc quan trọng trong đời sống có thể được tóm tắt trong chín chữ.
Từ nhiều ngày, nhiều năm nay, để tưởng nhớ một người mà tôi đã tin tưởng, tôi vẫn ước ao đã trao được cho chàng chín chữ của tôi. Một ngày kia, tôi đã viết chín chữ đó xuống trong nhật kí của tôi:
Thân gửi Ông Tổng Thống nước Cộng Hòa mới,
I think I have fallen in love with you.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Em nghĩ rằng hình như em trót yêu anh
1 2 3 4 5 6 7 8 9
***
POSTSCRIPT (LỜI CUẢ NGƯỜI PHỤ NỬ KỂ CHUYỆN, NHIỀU THẬP NIÊN SAU)
Chính tôi cũng đã già đi. Hôm nay tôi thức dậy, nhìn vào trong gương và thấy một người đàn bà trong đó.

Đã qua rồi thời sinh viên năm thứ nhất tại SISU.
Từ ngày gặp Chàng Khùng lần cuối cùng, tôi không bao giờ được gặp một người nào khác mà tôi muốn trao tặng chín chữ của tôi. Một người nào có những giấc mơ to lớn hơn đời sống và có can đảm theo đuổi những giấc mơ ấy, không bao giờ e thẹn, ngại ngùng nói những ước mơ ấy ra trong một thế giới không tình cảm.
Tôi cất giữ chín chữ ấy trong một cái bình ảo thuật và đậy nắp lại, cùng với thời thơ ấu mới lớn ở Việt Nam. Đồng thời, tôi tiếp tục chờ đợi, hi vọng sẽ gặp một người nào sẽ gọi tôi là Đệ Nhất Phu Nhân. Tôi không bao giờ gặp cả. Tôi học xong đại học. Rồi vào trường Luật. Trở thành luật sư. Làm việc liên tục trong một số những hãng luật. Thời gian chầm chậm trôi qua. Một hôm, nhìn vào gương tôi nhận ra là tuổi hai mươi đã qua rồi. Rồi tôi về Houston, Texas, và có lẽ sẽ không bao giờ trở lại miền khí hậu lạnh để có thể thấy bốn mùa thay đổi và những lá vàng rơi.
Tôi nhìn vào cặp mắt người đàn bà ở trong gương trước mặt tôi và nói với nàng:
“Ừ, tôi biết cô. Tôi biết tất cả về cô, và tôi vẫn thích cô.”
Tôi muốn vô cùng là tôi có thể nói như thế với một người khác, với tất cả sự trìu mến ràng buộc những trái tim nhạy cảm. Những ràng buộc giữa những nghệ sĩ, những người mơ mộng, những bạn bè tốt nhất, cho nen họ hiện hữu vượt ra ngoài cõi đời này. Sự thông cảm giữa những người trưởng thành, sâu sắc, mang niềm hoài cảm nhớ tiếc những giấc mơ đã chết.
Tôi muốn tôi có thể ôm hình bóng của chính tôi, vì tôi nhìn thấy trong mắt người đàn bà đứng trước mặt tôi hình dáng cái bình ảo thuật với chín chữ trĩu nặng những giấc mơ của nàng.
Tôi muốn vô cùng là tôi có thể làm cho điều đó xẩy ra với nàng. Công cuộc đi tìm tình yêu và lí tưởng. Trong một thế giới bị xâm chiếm bởi những tiêu chuẩn vật chất, và chủ nghĩa tiêu thụ, điển hình là sự đòi hỏi vô nhân của sự thi hành luật pháp, thì người đàn bà-mà-tôi-đã-trở-thành sẽ tiếp tục kiếm cách trao đi, một cách giản dị và trọn vẹn, chuỗi chín chữ bằng tiếng Anh đơn giản.  Hay bằng bất cứ thứ tiếng nào trên thế giới, bao gồm cả tiếng mẹ của nàng.
Chín chữ của tôi.
Cô S.
DNN C 1998

EXCERPT FROM THE ORIGINAL IN ENGLISH, 
FROM MIMI AND HER MIRROR:  

Somehow I knew in my heart I would never see my Crazy Man again. I had never had a chance to tell him about my pain. Gone was the opportunity to share. I was to bear my pain alone, from now on.
I left Krost Hall and headed for the Communications Building. I had to cross the forest to attend my drama practice.
Autumn appeared before me on the mattress of gold, reddish, and mustard green leaves covering the earth. One morning breeze awakened them. Tiny evasive sounds emanated as the blowing wind touched the leaves. Those tiny whispers turned into the crispy sound of breakage as my shoes pressed onto the damp ground, crushing the awakened leaves. Then came silence. Like a stagnant painting, the forest after its morning breeze froze into serenity and rows of trees stood silently, countless leaves awaiting breathlessly in that utmost silence. They throbbed and pained as I raised my heels and stepped, as though they had souls.
The leaves are crying!” I thought to myself.
They are indeed crying,” I repeated. I could hear their cries. Distinctively. Those small cries together filled up my ears into a requiem for imminent death.
I began to see, among broken leaves, the dark, fiery eyes of a disillusioned Vietnamese graduate student who had decided to throw away his long years of education, and who had called me his “First Lady.”
I stood in the heart of the woods, burying my feet in the corpses of broken leaves. My eyes blurred and my temples pulsed. For a moment, I forgot where I was. Images of roaring cargo airplanes and people walking through barricades of MPs wearing black bands on their arms and shiny pistols around their hips rushed through my mind, and I had to sit down on the ground to gather myself. I sat among crying leaves and I had no Shakespeare lines prepared for the forthcoming practice. Instead I composed my own monologue. I want to turn the clock back so I can redo a departure. I want to pack properly. I want good luck and bon voyage and welcome gifts. Where I am going, I will see the changing seasons like rows of silent evergreens and all that pure sparkling snow whitening the earth, and I will jump up and down and roll myself around on that pure snow, celebrating the season and knowing the great joy of being alive. But I am not rolling and, instead, I have made timid footsteps on broken leaves. On the Boeing airplane that crossed the Pacific from Guam to the U.S, I came across a Newsweek cover showing people standing behind banners, “Only Ford wants them.” “Why this banner? Are we not wanted?” I had asked that day and my father yanked the magazine from me. Too late. I had already seen the angry rejection of the host country. In confusion I slept through the flight and when I woke up, I had already crossed the ocean. When the ocean no longer spread its green underneath the grey wings of that impersonal plane, I thought I was still walking in a dream, an endless dream that sleepwalker dreams: a girl with no past born to be sixteen, a young refugee with no luggage but her nightmare and solitude. Yet I am supposed to celebrate freedom and a new life. But separation is the fate of the exiled, and for a traveller in exile, every departure is but an old, déjà vu beginning. So through this life I will repeat my departures, meeting forests of leaves that change colors, telling me of the season and the transient nature of life. I am whispering to the dying leaves about my end –when life and death become one, and I, too, will return to the earth, joining those leaves and disappearing into the ground. Perhaps then I will turn into the cool autumn air, and there will be no breakage, no separation, no past, no present, no running, no search for a new place, no repeated departures, because I have become the air, inseparable from its sky, and no one, nothing can cut the air in half and break life in two to create a new beginning that multiplies. The air I have become will permeate everywhere. But as young as I am, why am I thinking about a time when I will change into the autumn air? It must be because of what happened to me during the exodus — the pain of secrets that I alone have to bear, and there is no one to tell it to — the unwanted exchange for the freedom I am supposed to cherish. So instinctively I know that only in the transformation of flesh and bone into air will I attain complete safe harbor. Change me into the air and I will attain absolute freedom and the ultimate sanctuary of peace. But once a refugee, always a refugee. I’ll be running forever, until I reach the farthest edge of the planet, until there is no more earth on which to run, when I will turn into the ultimate vacuum called the air. Until that final moment comes, I am to cross the forest, toward a stage. “Are you sure you can handle Shakespeare?” A classmate named Steve once asked. I didn’t know what to say but I could see the doubt in his eyes.
***
On that day in autumn of 1976 I delivered my monologue in the woods, while listeningto the cries of dying leaves. At times, I heard the leaves throbbing, pulsing, in harmony with the sobbing timber of my heart. A strong wind blew by, and all of the leaves awakened for the last time before their death. Their cries became symphonically crescendo, filling the low sky. I held on to my shoulders, shaken by nature’s requiem for those dying leaves.
Standing up from the bed of leaves, I started to cry.
And that was how I reached the stage of the Drama Department. There, I would be delivering the role of a lawyer, in front of a crowd who might be doubting my ability to handle the job.
***
The quality of mercy is not strained/ It dropped as the gentle rain from heaven upon the place beneath/ It is twice blest/ It blessed him that gives and him that takes/ Tis mightiest in the mightiest/It becomes the throned monarch better than his crown,” I said the words.
I curved my tongue and then darted it underneath the upper row of my front teeth. I gave the soft “th,” and pushed my breath through the blockage between the tongue and teeth to pronounce the breathy “th.” This sound did not exist in Vietnamese and it sounded English and I became Shakespeare’s English. I found a spot in front of me, a spot with no face, no name, and I spoke my words to it. I gave the words all the volume I could draw from the ninety five pounds and five feet two inches of me. Words poured out of my soul and when they escaped my mouth they sounded so alien. They leaped toward the spot I had chosen. There in that spot I reigned. Yet I felt so rotten inside.
For the performance, I had signed my full Vietnamese name. The drama coach could not comfortably pronounce it. It was a problem. My Vietnamese name was problem. Nobody cared how I was once so proud of the long, winding name that said something about my roots dating back to the Spirit of the River Huong who watched over me. Here, I was better off without that name on this stage. They had given me a new name. Portia. Easily slip on and off. So long as I could articulate the beautiful words, I would become Portia.
I was on stage as a woman disguised as someone else to speak the clever words and help someone she loved. Mercy. Justice. A pound of flesh. A woman more powerful and shrewder than men. An advocate. No one cared who I was. No one recognized me. No one was supposed to. I became Portia. The spot to which I spoke was no longer Hue, DaLat, Saigon of the Vietnam I knew. It became Venice with all those gondolas and plenty of olives. “That in the course of justice none of us should see salvation./ We do pray for mercy./” I was speaking outward still, yet a smaller voice spoke inside me. Salvation. The tiny voice told me. To reach salvation, one must forebear. Forgive. Forgo. And forget.
I put the sharpness of my pain into the words.
“Take then thy bond, take thou they pound of flesh./ But in cutting it if thou dost shed./ One drop of Christian blood thy lands and goods./ Are by the law of Venice confiscate unto the State of Venice…/” I thought of the next step after SISU. Did this mean no more First Lady? Just a stage?
Therefore prepare thee to cut off the flesh./ Shed thou no blood nor cut thou less nor more./But just a pound of flesh.” In the spot to which I spoke, I found the Vietnamese Sidney Poitier’s grin. Those shining white teeth. I am speaking to you. Can you hear these clever words? I am supreme and powerful and I can make things happen. I won’t succumb. Forebear. Forgive. Forego. And Forget. I was speaking forever though it felt so bad inside. I enunciated the t’s and the s’s. I was careful and perfect with all letters, vowels, and ending sounds. When the lump raised in my throat, and my tongue refused to obey, I stopped and removed my eyes from the spot. In the rows of seats in front of me and below me, they all waited, their eyes fixated, thinking I was highlighting something. My eyes back to the spot. To him and me. Mercy. Salvation. A pound of flesh.
And then it was all silence.
Until I heard a few hands clapping. And then a few more. My eyes left the spot where he was and everyone in the theater was clapping, and the roaring sound reminded me again of that fated cargo airplane that had swallowed me that day in April, 1975.
I rushed off the stage. I thought I would collapse.
But I did not collapse. Instead I stood still, dazed somewhat, and someone was approaching me. I recognized him. The curly hair. Big brown eyes. Big teeth. He smoked and called himself an actor. “Hey,” he said. The SISU students all said that. “Hey, hey, hey, Oh yeah? Cool! You guys, the dude, the gal, my pal, what do you know good? Hey hey hey…Come on, it hurts so good….Oh swell.” His name was Steve Something. Steve Whatever. I couldn’t remember. Steve Something or Steve Whatever from the drama class.
“Hey it was quite good. I was just surprised. Couldn’t believe you could do it as well as I,”he told me and his brown eyes also spoke the language of sincerity.
“So when did you first learn all this? At the beginning of the semester or last night? Quite impressive,” Steve was still speaking. He did not know when to stop. He was genuinely surprised to discover I could almost outdo him. Just almost.
They had given me a blond wig to get into the part and I had tucked my long black hair under it. It looked utterly ridiculous, and I was taking it off, but actually, no, I would not take it off! I had decided to become Portia. All I needed was a wig, plus one Big Mac a day.
“When I was a baby girl, I learned about The Merchant of Venice in Hue, Vietnam,” I answered Steve’s question. I also meant for my eyes to speak the language of sincerity. I was telling the truth. I was sharing my past with him. I travelled back to the time when my father was teaching English and American civilization to twenty-two-year-old college women at Hue University. Those young women had taken turns translating pages from The Merchant of Venice and A Farewell to Arms into Vietnamese. They hand wrote the translation onto a coffee-table hard-bound notebook. Pages beautifully bordered in flowery motifs and art emblems of the Faculty of Letters, sharp black ink on the best of grainy ivory paper. Some of the women were artists-to-be and they drew illustrations with ink and water colors and these artworks were inserted in between pages of translation. The beautiful notebook was given to my father as a gift at the end of the semester. I had seen these pages, words written in beautiful penmanship, those black and blue ink strokes reminding me of dancing swans. It was the most exquisite thing I had seen — this wonderful handwritten notebook that commemorated my father’s teaching career.
“What? You learned Shakespeare in Vietnam? You must be kidding me,” Steve was lighting a cigarette, and people were leaving the theater. “I don’t believe it,” he said. “I know about Vietnam. My brother was there in the army. People wore black pajamas and village huts were blowing up. Couldn’t have Shakespeare taught to a little girl in a place like that.”
I looked back to the spot to which I had been staring while on stage. The Crazy Man was hovering like an angel, waving at me:
Hello, my First Lady.
“How difficult is it to become a First Lady in America?” I asked Steve, and then my face felt hot. I swallowed with difficulty, my mouth all dried up, and I felt sorry I had even asked the question. The echo of The Crazy Man’s voice became louder and numbed my ears:
Hello, my First Lady.
Steve had not extinguished his cigarette, his eyes darting around the theater. Naturally, he did not see the hovering Crazy Man.
“You mean like Jackie Kennedy?” He asked. “I don’t think you can play her.
She is five feet seven. Besides, you are Oriental.”
I looked away to avoid the smoke coming from his cigarette and the reality it painted. I was Oriental, as in Oriental rugs. I was no Jackie Kennedy. I could eat ten Big Mac’s a day and I would never be five feet seven. I looked to the spot above again, but The Crazy Man was no longer there. He had flown away.
“Hey are you crying?” Steve was still smoking, and everyone else had left the theater. “Don’t feel bad, kid. So what if you can’t play Jackie. This is America. Every one is a First Lady. Every one is the President. It’s a democracy. It’s the American dream.”
***
My instinct was correct. I never saw The Crazy Man again, since only a day later, the campus newspaper reported that he died in intensive care.
He had no family in the U.S. so the Vietnamese refugees in southern Illinois pooled their resources to hold a funeral. The campus administration, several student anti-violence groups, and churches in the area also contributed. His burial invoked as much gossip as the rumors about his life. Fearful of his killers and the prospect of hate crimes, many refugee families were too afraid to attend his funeral. Some started lying about where they were from. Others hopped on a bus and immediately left for California after the funeral. After all, California is the promised land for Asians.
I did not attend the funeral, for a different reason.
On that day I skipped classes and tried to sleep while snow fell outside. For Vietnamese, white was the color of mourning. His funeral coincided with the first snowfall of the season. I stayed in bed the whole day and in between short lapses of sleep, I heard again the sounds of gunshots and airplane engines. Déjà vu. Images of falling leaves and falling snow dancing on an all-white path dashed through my head. Even the leaves had turned white.
I heard again the cargo airplane engine with its rhythmic pounding noises, and I wondered what it felt like to stop breathing and die, lying underneath the hammering of nails onto a coffin lid. I wished I could lie in silence, under beds of roses and tulips. Yet I tossed and turned in my bed, hearing pounding noises above my head as my temples pulsed. I knew The Crazy Man was gone and I lived on.
***
To the Vietnamese students at SISU, the Crazy Man became a myth.
Vietnamese believed in the luck of number nine. I believed that all important things in life should be summed up in nine words.
For the years to come in my life in America, I kept wishing I had delivered my nine words to him. Either to the man I knew, or the symbol he had become in my head. Whenever I thought of him, I still felt the ticklish sensations on my abdomen, together with the urge to cry. I thought, too, of all the ideals and dreams that had died when I crossed the ocean in 1975, revived shortly when I exchanged words with him and during my first appearance as Portia on the SISU stage.
I let myself daydream one day and thought of all the what-if’s, and I wrote down in my diary combinations of my nine words. On the page appeared the following:
Dear Mr. President of the new Republic,
I think I have fallen in love with you.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Yes, I would very much like to marry you.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Who knows perhaps we could have saved our dream.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Em nghĩ rằng hình như em trót yêu anh
1 2 3 4 5 6 7 8 9

WND Copyright 1999, 2005, 2011