VH Tiếng Nói Văn Học Việt Houston VH

VVH Tiếng Nói Văn-Học Việt-Houston (Viet Voice From Houston). Xin gửi bài vở về địa chỉ wendynicolennduong@post.harvard.edu. Contributing articles and commentaries should be submitted to wendynicolennduong@post.harvard.edu.

COPYRIGHT NOTICE AND DISCLAIMER

Về vấn đề bản quyền (copyright) cho tác giả Việt Nam của các bài viết được đăng tải ở đây: Chúng tôi nhận được những bài viết này từ độc giả hoặc từ các môi trường truyền thông của các nhóm người Việt, vì tác phẩm đã được phổ biến ở một môi trường công cộng nào đó. Chúng tôi mạn phép đăng tải theo lời giới thiệu của độc giả, dưới thẩm quyền "fair use exception" của luật trước tác bản quyền, vì làm việc cho mục đích giáo dục quần chúng, không vụ lợi. Nếu độc giả nào biết tác giả, xin cho chúng tôi biết để gửi lời chính thức xin phép, hoặc nếu tác giả không bằng lòng, xin cho chúng tôi biết ngay để chúng tôi lấy bài xuống theo ý của tác giả.

disclaimer re content

Quan điểm của tác giả hay độc giả trình bày ở đây không phải là quan điểm của người hay nhóm chủ trương VVFH, và vì thế chúng tôi không chịu trách nhiệm về những quan điểm hay dữ kiện đưa ra bởi tác giả hay độc giả. The views and supporting facts expressed by the authors or commenters published here are not necessarily those expressed or endorsed by VVFH or its editors. Accordingly, VVFH disclaims liability with respect to such content.

MỤC ĐÍCH:

Lời nhắn với học trò Việt Nam của giáo sư WENDI NICOLE Dương, cựu học giả FULBRIGHT Hoa Kỳ và cựu giáo sư luật đại học Denver:


Cô thành lập tập san này là đề cố gắng giữ lại những cái đẹp trong văn hóa cội nguồn của Việt Nam, đã giúp chúng ta đứng vững trên hai ngàn năm, dựa trên những giá trị đặc thù của người Việt nhưng đồng thời cũng là giá trị tổng quát của nhân loại. Hy vọng TIENG NOI VAN HOC VIET-HOUSTON, gọi tắt là VH, hay VVFH (Viet Voice from Houston) sẽ đến với người Việt trên toàn thế giới, qua độc giả thích văn chương văn học trong cả hai ngôn ngữ Việt-Anh, từ bàn tay và ánh mắt của một số it học trò Việt đang sinh sống ở Mỹ hoặc ở Việt Nam, của chính cô, cũng như của thế hệ đi trước biểu tượng là cha mẹ cô, những giáo sư ngôn ngữ.


Wendi Nicole Duong (Nhu-Nguyen) tháng tư April 2015

TRIO OF WATER LILIES

TRIO OF WATER LILIES
TRIO OF WATER LILIES enamel, markers, pen and pencil on paper. artwork by Wendi Nicole Duong copyright 2013: in all three regions of Vietnam, one can always find Hoa Sung, water lilies!

Saturday, November 30, 2019

hồi ký DNN, Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm, bản mới nhất tháng hai 2023


My grandmother,
the aristocratic woman of Huế, Việt Nam



My mother, the young bride from Huế, Việt Nam


My father, the retired immigrant teacher,
along the coast of Texas, 
about five years before his passing


Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm

NOTE FROM THE AUTHOR:  

Below is my first piece of Vietnamese creative writing penned in or about 198́8,  when I just started my job as a young lawyer for the U.S. Securities & Exchange Commission in Washington, D.C. (Leaving my law firm to work as a government lawyer meant I could get away from billable hours, so I started to write at night).  

Out of an impulse, I stayed late at work one evening to write this short piece. Totally impromptu.  I wrote about the image of my grandmother and her wait to catch floating coffins.  The floating coffins came to her in a dream.  

But whose coffins?  

***

I wrote without a break, and cried on every line of text.  This was the first and the only time I wept my heart out for the loss of South Vietnam in 1975 -- the loss of whom and what I loved.  

That same weekend, I sent this this piece to my father in Texas. He then retyped it on his manual typewriter, put in the Vietnamese diacritics by hand, and sent it to Van Hoc in California in 1989.  Nguyen Xuan Hoang (who took over Mai Thao's editorial role in exile) read it, and the next thing my father told me was that the piece was published, first in Van Hoc and then The Ky 21 for the Vietnamese-speaking community in America. 

That was the moment my father  recognized me as a creative writer of the Vietnamese language, 

To him, I had arrived. 

***

The piece  was also the beginning of Mui Huong Que (The Cinnamon Fragrance), my first Vietnamese collection of creative writing published for the exile community. Van Nghe bought it, financed the printing and distribution, and paid me a lump-sum royalty.  I remember my father beaming: 

"You have earned your place in Vietnamese literature, even though we are now in exile," he said. 

I didn't at all realize what that meant to my father.  His pride and sense of accomplishment.  I took it all for granted. 


***

To many Vietnamese, the collection was unusual and controversial, because of its thematic treatment and daring nature of at least two short stories that had gender relations and sexuality in each, often misconstrued and misunderstood.  

I didn't care, and neither did my parents. 

If I had earned my place in Vietnamese creative literature that way, as my father had contentedly told me, with a twinkle in his eyes, such a place was due to the short piece below, one of the two memoirs in the collection. 

***

But there is something else, besides my memory of the twinkle in my father's eyes.  

In retyping this short piece, my father had suggested to me two conceptual additions to the text.  He felt I should mention the river, and then the universe.  He even mentioned Neil Armstrong, the first American to walk on the moon.   What did that have anything to do with me?  \

Of course it did.  I should have known better. 

It was July 1969, more than a year after the 1968 Tet Offensive, when Apollo 11 landed on the moon, and Armstrong made history that summer, after I had entered junior high school in Saigon.  Prior to the Tet Offensive, my father had made a trip to America as a delegate representing South Vietnam's Minister of Education and Culture. His job was to study Medicare and Social Security so that  the Ministry could help the Prime Minister implement a similar program for the old in South Vietnam.  My father had taken home a black-and-white 11-inch television.  That was our treasure, as we moved into our first house in the Republic.  My father's plan was to open up our front door so that all the children in the neighborhood could come in to watch TV.  but the Tet Offensive delayed our plans.  So, that summer of 1969, my father opened our doors and the kids came in to watch the greatest news of all:  man had reached the moon.  Two American men were walking the surface of the moon!  

I, too, was a kid like the rest of the audience from the neighborhood.  We were used to believing in the Vietnamese folk tale: that on the moon, there existed a tall and bushy banyan tree, the cay da.  A little boy named Thang Cuoi sat underneath the tree.  Together with the beautiful fairy named chi Hang, Miss Lunar, Thang Cuoi inhabited the Moon.  

Not any more after that night when all the kids and I and my siblings glued our eyes to my father's 11-inch TV set.  It was a Sony, I still remember, our first television.  There was no more Thang Cuoi the little boy who slept underneath the shade of the banyan tree, or the beautiful Chi Hang Ms. Lunar who danced her fluttering silky sleeves over the sleepy head of Thang Cuoi.  All fantasies and fables were gone as Armstrong and his cohort walked their first steps... 

Why in the world did my father mention Armstrong for my short piece?  I dimissed the idea. My father must have stretched his imagination.  He was thinking far too much about our house and the memories of our previous life in Saigon.

*** 

 So, as he started to explain, I stopped him and quickly turned down his suggestions.  Back then, I was still on this blinding path of Americanism. I wanted to extract myself from any parental influence on my thought process, although I had cried for the past -- my life with my family in Vietnam, and had entrusted to my father my  first peace of creative work written in our mother tongue since the fall of Saigon. 

 Like a fool, I gave my father no chance.  No mentioning of Neil Armstrong in this piece, Daddy. 

He stopped talking, and silently accepted my rejection.   

***

I found out, later, the reason why my father mentioned Armstrong.  It had something to do with his love and exposure  to Vietnamese creative literature.  The motif.  The symbolism that triggered his love. I learned far too late that his literary experience with the Vietnamese language centered around stars, galaxies, and the mysterious universe. 

***

Today, my father is dead.  

After his funeral, in the papers he left in his room, I found a copy of his book published in Saigon in 1970:  "An Anthology of Vietnamese Creative Literature."  He had used this anthology as a textbook in the art of translation as a way to teach English as a second language to college students in his class. The young men in his class at the Faculty of Letters, University of Saigon, would have to go to the battlefields unless they passed his exam, because English as a Second Language was an important subject for the Faculty of Letters.  My father had returned to Saigon for a visit in the early 2000s, and had found a copy of his textbook at somebody's house.  He repurchased it from the owner and took the copy back to the U.S.  

The book had found its author. Just like that. Coincidence. At random.  Ir simple pre-destiny. 

The book seemed to wilt in my hands.  The pages were so old they had turned yellow and even brown, as though they could crumble under my touch.  But they endured amazingly, as though they were just waiting for me to read them.  

My father had selected what he considered to the best and most representative of Vietnamese modern prose for this textbook. Among the short stories he selected for his anthology was "The Illuminating Stars of Dieu"  written by South Vietnam's premier novelist, Mai Thao.  To my father, this short story  marked the talent and literary career of Mai Thao. The story was about the friendship between two young Vietnamese men.  They met each other through  their refugee experience running away from war zones during Indochina War of 1946 -- Ho Chi Minh had called for a national voluntary draft of young men to join his Viet Minh troops as soldiers to fight the French.  Of the two young men, Dieu was obsessed with stars.  He taught his new friend what stars meant to him.  When the war subsided, the two young men each  returned to their home.  Dieu visited his friend once, during which time, they talked more about stars.  And then the narrator received news that Dieu had died because of tuberculosis, the most prevalent killer of Vietnamese during such time.  

In English, the excerpt read as follows:

MY FIRST STARS

At the age of seventeen, I spent a good deal of time looking at stars.  I called them "The Illuminating Stars of Dieu.   I will explain later why I always recalled those stars as memory of my youth and the war of our time.  During that time, we were taking refuge of Hien street, in the thatched boarding house of the old village Bang. That was our abode. The small spot in the garden near the pond became our astronomic observatory. We went there to sit every night. Our young and naive souls opened dreamy paths to the peak of the sky.  The manuscript of my first poems, with its foreword written by Dieu, was never printed eventually, but during such time, we gave it a title: The Stars of my Horizon.  Those first poems of mine were written during the late hours of endless provincial nights under a small lamp, while we both knew that out there, there was a war awaiting us.  The virginally white pages of the manuscript that awaited my words consisted of space as immense as the universe of stars.  As I composed and Dieuy wrote down the words to fill that space, we felt as though we were travelling to reach those stars above us.  We used to go back to the boarding house very late at night.  Icy night.  A thin wattle. The leaves and flowers in the garden emanated a mysterious scent.  The exotic perfume of our paths.       

I flipped through the pages of the Anthology and found stars mentioned in other literary excerpts written by other nationally known writers of South Vietnam.  In a passage written by Doan Quoc Sy, the writer called the Faculty of Letters, University of Saigon, the flower of the universe. It was the leading star, Sao Bắ Đẩu, for nation-building, the center of thoughts for the people. 

In another passage written by Vu Trong Phung, the best-known realist novelist of colonial time, the main character, an orphan, declared the most quoted sentence in Vietnamese literature :  "I was born under an unlucky star."  (Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu...)

In another passage written by Toan Phong, the Vietnamese pilot-writer the equivalent of St. Exupéry, the author described his night flight, when the day yielded into night time, and the lights of the landing track seemed to compete with emerging stars over the pilot  ̣ 

Stars, stars, and stars...

The best of Vietnamese prose in almost 100 year, written in the new national language using the Roman alphabet, a product of Christianity and French colonialism. 

My father's love and his world. 

***

 Among his papers, I also found the two concepts he had written down as suggested additions to my piece about my grandmother's floating coffins.  

The additions were brilliant, because my father was brilliant, but it was too late for me to tell him this.  

The old culture taught us Vietnamese to be humble. but I no longer want to be humble now. I want to tell the world that my father was brilliant.  In fact, I think that every Vietnamese American child who was blessed enough to know of his or her father's work in the old country should be entitled to say his or her father was brilliant.     

I am so sorry Dad, for my stupidity in  rejecting the two additions that represented your brilliance.

The twinkle in your eyes when you recognized me as having earned my place in Vietnamese literature, in exile. 

The brilliance of your stars. 

***

Back to my short piece below.  

I have added the two additions my father made to my piece, making it anew as of today, in 2023, in my father's honor.  The two additions are bold-faced.  The piece as a new name.  

Here it is, Daddy, my renewed piece, with your two additions, bearing your fingerprints, footprints, and fruits of your thoughts,  wherever you are now, out there, waiting for our reunion: our family, our roots, together again, on our river, and among our stars:


Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm: 
câu chuyện cuả dòng sông và cuả những vì sao

Đau đớn thay phận đàn bà...
Nguyễn Du

(c)DNN 1998,
from the back cover of 
"Mùi Hương Quế"


Người đàn bà đẹp đầu tiên tôi gặp trong đời là bà ngoại tôi. Khi tôi có trí khôn thì bà ngoại tôi đã ngoài sáu mươi tuổi. Ở tuổi đó, người bà vẫn thẳng, tóc dài gần chấm đất, tuy đã muối tiêu nhưng vẫn còn óng ả, lướt thướt. Bà có chiếc mũi dọc dừa, gò má cao, cặp môi mỏng và cong, rất hiếm thấy trên những khuôn mặt phụ nữ thuần túy Việt Nam.

Bà ngoại tôi pháp danh là Tĩnh Tâm. Tên thật của bà là Hương Quế. Xứ Huế đã đặt cho đàn bà những cái tên đẹp lạ lùng: Yên Chi, Dạ Khê, Tiểu Bích, Tú Thiềm, Phiến Tuyết, vân vân.

Mọi người chung quanh cho rằng bà ngoại tôi là một người đàn bà khó tính, khắc nghiệt và lạnh lẽo Bà có một chứng bệnh không bác sĩ nào chữa được. Đó là bệnh nóng cổ. Cổ bà nóng và rát, làm bà ray rứt, khó chịu, ăn ngủ không được, người đâm bẳn gắt. Bà ngoại tôi rất chiều con cháu, nhưng hay la mắng, rầy rà gia nhân. Mẹ tôi là con độc nhất của bà. Gả mẹ tôi cho ba tôi là người Bắc, bà ngoại tôi luôn luôn mang nỗi buồn phải xa đứa con một.

Tôi chưa hề thấy bà ngoại tôi khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Bà ngoại thích coi cải lương, say mê. Nhiều khi xúc động, khóc sụt sùi. Con người tình cảm ấy không thể nào khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Khi bà la mắng người làm, giọng bà như độc thoại, buồn như một điệp khúc than thở, không hề có tính cách đay nghiến của một người chủ thiếu lòng nhân. Lúc về già, người độc nhất mà bà cằn nhằn là ông ngoại tôi. Nhiều khi không duyên cớ. Ông ngoại tôi người nhỏ bé, tính vui vẻ, hồn nhiên. Bà con gọi đùa là Lão Ngoan Đồng như trong truyện kiếm hiệp. Khi bà ngoại tôi càu nhàu, ông ngoại tôi chỉ phớt tỉnh, ngồi đọc báo.

Mẹ tôi kể cho tôi nghe cuộc đời bà ngoại. Bà chỉ có một người chị gái. Hai chị em con quan xứ Huế, gia đình phong lưu trưởng giả. Người chị gái, bà Ấm, lấy chồng đông con nên vất vả. Bà ngoại tôi lấy ông ngoại tôi là con quan, được đủ miếng ăn thì lại phải chịu những đau đớn khác.

Ngoài cảnh làm dâu trong chế độ gia đình phong kiến, bà ngoại tôi là một người mẹ xấu số. Đẻ ba con trai đều chết cả ba. Mẹ tôi thì èo uột, hay đau ốm. Bà ngoại phải đem cho chùa, đổi tên, cho thần thánh khỏi bắt đi. Vì không có con trai, bà phải cưới vợ hầu cho ông ngoại rất nhiều lần. Mẹ tôi kể có lần bà phải nằm giường sát phòng hợp cẩn của ông ngoại và người hầu trẻ. Ông ngoại tôi là một thứ “ông phán” phong nhã, hào hoa, có không biết bao nhiêu vợ hầu vợ lẽ. Không có con trai, bà ngoại tôi phải nuôi con nuôi, hoặc con trai của những người vợ hầu. Những người con trai này lớn lên (trừ người con út) đều phụ công nuôi dưỡng của bà ngoại tôi mà đi.

Thuở nhỏ tôi không hiểu được lòng ưu uất của người vợ lớn là bà ngoại tôi, cũng như nỗi cô đơn của bà. Ở tuổi thơ ấu, tôi không hiểu được căn bệnh nóng cổ của bà. Mẹ tôi bảo bà tưởng tượng ra bệnh. Tôi thì cho rằng bà nóng cổ vì hay hút thuốc Cẩm Lệ.

Tôi lớn lên trong lòng thương và tình quyến luyến của bà ngoại. Có lẽ tôi đã lây tính đa sầu, đa cảm, hay khóc thương phận người của bà. Tuy trí óc non nớt, tôi cũng biết bà ngoại là người hay phiền muộn. Bà thích tôi ngồi coi cải lương với bà, một điều mà bố tôi cấm đoán. Tôi tự cho mình là người bạn nhỏ của bà. Tôi tự nguyện lớn lên sẽ làm cô giáo, mua nhà ở Huế cho bà ngoại ở.

Tôi nhớ mãi có lần tôi bắt gặp bà ngoại tôi nhỏ lệ, không phải vì tuồng cải lương hay vì giận ông ngoại nước mắt bà thấm ướt mái tóc dài. Tay bà run rẩỵ Bà kể cho tôi nghe về một hình ảnh mà lâu lâu bà vẫn thấy trong một giấc mộng đã ám ảnh bà cả đời. Bà dặn dò tôi đừng kể cho ai nghe, kể cả mẹ tôi.

Trong giấc mộng ấy, bà ngoại tôi, người đàn bà đẹp xứ Huế mang tên Tĩnh Tâm, ngồi một mình bên một dòng sông tĩnh lặng. Có thể là dòng Hương Giang, có thể là con sông Bến Ngự, hoặc có thể là khúc sông chảy qua làng Cồn. Trên dòng sông, có những cỗ quan tài trôi từ từ, lặng lẽ.

Người đàn bà ngồi đợi để vớt những cỗ quan tài.

Giấc mộng chỉ đến đó thôi, rồi bà ngoại tôi tỉnh dậy.



Bàn tay nhỏ bé của đứa cháu gái là tôi lau nước mắt cho bà ngoại tuổi ngoài sáu mươi. Tôi không thấy sợ, chỉ thương bà ngoại tôi nằm thấy ác mộng. Cơn ác mộng lặng lẽ và im lìm, không tiếng động.

Càng lớn, tôi càng nhớ mãi về giấc mộng của bà ngoại tôi. Có lần tôi hỏi, “Ngoại có biết trong quan tài có gì không?” Bà lắc đầu, không nói. Cái lắc đầu của bà có nghĩa gì tôi không rõ. Bà không biết trong quan tài có gì, xác của người thân, xác của người lạ? Hay là bà lắc đầu vì không muốn trả lời câu tôi hỏi.

Tôi vẫn thắc mắc mãi tại sao bà ngoại tôi nằm mộng thấy quan tài? Tại sao bà mang nhiều phiền muộn? Bà tương đối là được sung sướng vật chất và đời sống được bảo đảm. Trong khi cả nước khổ cực theo chiến tranh, theo nạn đói năm Ất Dậu, theo cuộc kháng chiến chống Pháp và những ngổn ngang của lịch sử thì bà ngoại tôi vẫn may mắn làm người thiếu phụ quý phái đất thần kinh.

Năm mười lăm tuổi, tôi đủ thông minh để phỏng đoán là những cỗ quan tài trong giấc mộng tượng trưng cho những cái chết của ba người con trai bà. Không có con trai là thảm kịch của cuộc đời bà ngoại tôi. Có thể những cỗ quan tài ấy tượng trưng cho nỗi đau khổ của bà khi phải chứng kiến những cái chết của những đứa con trai nhỏ vì bệnh sài kinh. Chung là sự hủy diệt sức sống và lẽ an vui của đời bà. Không có con trai, bà sớm mất tư thế trong gia đình. Nghe chuyện, tôi cảm thấy bất mãn cái vô lý, vô nhân của một xã hội chuyên chế đã gây nên sự đau buồn cho bà ngoại. Đồng thời, giấc mộng của bà làm tôi suy nghĩ đến cuộc đời của những phụ nữ Việt Nam khác trong dòng họ tôi.

Trái với bà ngoại tôi, bà nội tôi không có một cái tên quý phái cuả xứ Thần Kinh. Bà nội tôi là con một cụ đồ hay chữ. Vì thế, tuy con gái không được đi học, bà tôi lại thuộc lòng Tam Tự Kinh. Bà thấp lùn, nước da trắng nõn, mặt tròn trịa, phúc hậu, tính tình đơn giản, nhu mì, không bao giờ bẳn gắt. Lấy ông nội tôi là người chủ ruộng, bà nội tôi vẫn phải làm việc vất vả, quán xuyến việc đồng áng, nhà cửa. Rồi hai ông bà bỏ hết của cải, ruộng vườn di cư vào miền Nam. Lúc mới vào Sài Gòn, bà tôi phải đi gánh nước thuê, hằng ngày phải dậy từ ba giờ sáng đi bán xôi rong để nuôi gia đình cho đến khi bố tôi được bổ đi dạy. Bố tôi bảo bà nội lùn xủn vì suốt đời phải gồng gánh bưng xách. Những gồng gánh bưng xách đã hủy diệt sức lớn trong xương cốt của bà từ thuở còn là thiếu nữ.

Càng về già, bà nội tôi càng say sưa kể lể những chuyện quá khứ ở miền Bắc Việt Nam. Bà là nạn nhân của tục tảo hôn. Bà bị gả cho một cậu bé trai lên bảy. Buồn tủi, bà trốn về nhà cha mẹ. Sau đó, bà lấy ông nội tôi là con nhà địa chủ. Bà trông nom tá điền, lại phải làm dâu, rồi cũng phải để ông nội tôi lấy vợ bé, và là con dâu trưởng, bà luôn luôn đứng mũi chịu sào, tảo tần sương gió. Sinh đẻ cả hơn mười lần, chỉ nuôi được năm. Trong cuộc chiến tranh Việt Pháp, người con gái đầu lòng của bà, cô cả chị bố tôi, bị tử nạn năm hai mươi tuổi. Cô cả là người phụ nữ học thư’c, nói tiếng Pháp thạ̣o, và là nữ y tá Việt Nam đầu tiên cuả vùng Việt Bắc.

Ngày còn là học sinh ở Việt Nam, tôi vẫn suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao trong cuộc đời bà nội tôi cũng có những cái tang đau khổ, những biến cố đánh nặng vào đầu óc, vậy mà bà nội tôi không mộng thấy quan tài. Hay là bà nội tôi cũng có nằm mộng đấy, mà không kể lể, khóc thương?

Chiếc quan tài ám ảnh tuổi thơ của tôi cùng với hình ảnh những người đàn bà khác trong họ. Tôi có người cô họ, tên Oanh, năm hai mươi hai tuổi thì chồng chết trận. Cô than khóc, vật vã, gào thét, vất vưởng, mắt lạc thần cả mấy năm sau đó. Trong họ hay bảo: cô khật khùng vì đau khổ. Tôi có người dì họ, tên Thanh, chồng chết đã lâu. Bà ngồi bán nón ở chợ Đông Ba, Huế để nuôi con. Đứa con trai của bà chết trận. Quan tài của con chở về, bà cũng khóc lóc, vật vã, khật khùng như cô Oanh. Chứng kiến nỗi đau khổ của họ, tôi vẫn tự hỏi không biết rồi họ có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi lềnh bềnh trên sông như bà ngoại tôi?

Cũng năm mười lăm tuổi, tôi đọc cuốn Phái Thứ Hai (Deuxième Sexe) của nhà văn Pháp Simone de Beauvoir, tình nhân của triết gia Jean Paul Sartre. Trí óc tôi chưa đủ phát triển để hấp thụ hết cái thuyết tranh đấu cho nữ giới trong tác phẩm của de Beauvoir. Nhưng tôi đã đủ lớn không để nhận thức rằng trong tác phẩm của nhà văn nữ này, không có cái ám ảnh đau thương của những cỗ quan tài như trong giấc mộng của bà ngoại, không có những gồng gánh, bưng xách đến lùn cả người như trong đời bà nội tôi, cũng không có những cỗ quan tài bọc cờ và những cơn vật vã, khật khùng của cô Oanh và dì Thanh. Những phụ nữ Âu Mỹ tranh đấu để được quyền. Còn những phụ nữ trong gia đình tôi phấn đấu để sống còn, và sống là sống cho người chứ không phải cho mình. Tôi tự hỏi tại sao trên mặt đất này mà những mẫu người đàn bà được Simone de Beauvoir phân tích là tác phẩm của trí tuệ và ý thức, còn những người đàn bà thân yêu trong đời tôi là tác phẩm của nước mắt chảy ngược vào lòng?

Tháng tư năm bảy lăm, bố tôi mang vợ con, cha mẹ và anh em vào phi trường Tân Sơn Nhất để đợi máy bay sang Mỹ. Dĩ nhiên là ông bà ngoại tôi ở lại Sài Gòn chứ không thể nào theo con gái và gia đình con rể. Cuộc ly biệt quá ngắn ngủi, vội vã. Để tránh xu’c động, ông ngoại tôi lánh mặt con gái, con rể, và các cháu. Mẹ tôi cũng tránh vương vấn chia tay với ông bà ngoại, và tôi cũng thế. Tôi nhớ mẹ tôi gọi bà ngoại vào trao tay hòm chìa khóa thay thế lời từ biệt.

Bố tôi dùng xe hơi chở gia đình vào phi trường. Không hiểu vì sao, tôi tình nguyện lái Honda PC theo sau. Tôi nhớ mãi hình ảnh bà ngoại tôi đứng ngơ ngác bên cửa sổ sân nhà, không dám hỏi chuyện để tránh xúc động khi những người thân của bà đang tíu tít xưa xoan cho cuộc hành trình vô định. Bà đội nón lá như lúc đi chợ, tóc muối tiêu búi đàng sau, đôi mắt buồn như muốn khóc.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy bà ngoại tôi.

Bây giờ tôi đã lớn, tôi không làm cô giáo. Tôi không ở Huế và bà ngoại tôi đã chết.

Một buổi chiều mùa hạ năm bảy chín, tôi theo một người bạn trai Mỹ làm nghề phó nhòm, muốn chụp ảnh tôi để “lăng xê” tôi làm người mẫu. Tôi gọi điện thoại về nhà, thì bên kia đầu dây mẹ tôi tức tưởi: “Con ơi, bà ngoại chết rồi!”. Tự nhiên trong bụng tôi đau nhói như có mũi dao đâm. Tôi không khóc nhưng lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác gọi là “đau như đứt ruột”.

Bà ngoại tôi chết trong đau đớn vì bạo bệnh mà không đủ thuốc men. Bà mất đi không một lần thấy lại đứa con gái thân yêu, con rể, và các cháu ngoại, nhất là đứa cháu đã chia sẻ những giọt nước mắt với bà.



Cái chết của bà ngoại làm tôi thấm thía thêm ý nghĩa “sinh ly tử biệt.” Lần cuối cùng nhìn bà ngoại buổi chiều tháng tư năm bảy lăm, khi bà tần ngần đứng bên cửa sổ nhìn con cháu ra đi là ý nghĩa nỗi khổ “sinh ly”. Và tin bà chết ở bên kia bờ đại dương là ý nghĩa niềm đau “tử biệt”. Tôi tự an ủi nghĩ rằng tôi không phải là người độc nhất thấm thía cái đau sinh ly tử biệt. Mà đó là cái đau chung của cả một dân tộc kém may mắn trên bản đồ thế giới. Nô lệ và chiến tranh. Một cơn lốc chính trị xoay chuyển cả nguồn gốc của một văn hóa nghèo, chậm tiến. Trong phần tư thế kỷ mà hai lần di tản cả triệu con người, vượt đường trường, vượt đại dương.

Tôi vẫn tự hỏi trong thời gian chúng tôi ở Mỹ, và bà ngoại sống thiếu thốn ở Việt Nam, không biết bà có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi sông, và bà có thấy những gì bên trong cỗ quan tài đó ? Điều đó bà chưa hề hé môi chia sẻ với tôi. Hay với bất cứ ai, kể cả chồng con.

Trong những năm tháng này, cuối thập niên tám mươi chuyển sang thập niên chín mươi, tôi có một hồi rảnh rỗi trong nghề nghiệp để đọc lại văn chương Việt Nam. Lần đầu tiên, tôi ngồi đọc hết mấy ngàn câu Chuyện Kiều, để ngẫm nghĩ về nước mắt, định mệnh, và sự phấn đấu của cô Kiều, về thân phận người đàn bà mà Nguyễn Du thương xót như thương xót chính thân phận tài hoa kẻ sĩ, và nỗi cô đơn tột độ của người thức giả:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như


Cũng năm đó, vô tình tôi đọc một truyện ngắn của bà Bùi Bích Hà, làm tôi nhớ giấc mộng của bà ngoại. Tôi không biết là truyện có thật hay không? Nhà văn kể lại truyện của một người đàn bà Việt Nam đi vớt xác con trên đường vượt biển. Truyện làm tôi bàng hoàng, nhắc tôi nhớ hình ảnh người đàn bà chịu đựng, ngồi một mình chờ những cỗ quan tài lềnh bềnh trên sông. Những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.

Tôi đi tìm một cuốn sách tâm lý giải mộng của Tây phương. Trong cuốn sách đó, tác giả bảo nằm mộng thấy quan tài là cảm giác bất an của người bị đe dọa bởi thiên tai, đại họa, sự trừng phạt vô cớ của định mệnh, hoàn cảnh, ở ngoài khả năng và quyền hạn của con người, không đo lường được.

Nhưng trong giấc mộng cuả bà ngoại tôi, ngoài những cỗ quan tài, còn có dòng sông. Tôi bắt buộc phải nghĩ đến những dòng sông, mang tất cả vật thể từ nguồn ra biển. Trên những dòng sông, có rong rêu, có phù sa, có thây ma, có xác người, và cả những cỗ quan tài thô sơ, đốn từ lòng cây trong rừng, được vội vã thả trôi để có thể theo sông về đến bến cố hương thay vì chôn vùi nơi đất lạ̣ quê người. Tất cả đều trôi ra biển. Ra với đại dương. Và về với đại dương.

Muà Đông cuối năm đó, tôi ra đứng bên bờ Đại Tây Dương, ngắm tượng Nữ Thần Tự Do khi thành phố Nữu Ước chưa lên đèn. Tôi đứng đấy cho đến khi trời tối xẫm và bầu trời bắt đầu xuất hiện những vì sao.  Gió lành lạnh. Và hơi nước lành lạ̣nh. Tôi ngửng mặt nhìn lên trời, màu xanh ngắt tuyệt vời đã tối dần thành màu đen thẫm như ́vạt áo dài nhung cuả bà ngoại t̀ôi ngày xưa.  Tôi ngước nhìn những vì sao phía trên bầu trời Nữu Ước đã lên đèn, mà nghĩ đến số phận cuả con người nhỏ bé.  Văn hoá cội nguồ̉n tôi hay tin vào những vì sao chiếu mệnh con người.  Tôi biết tìm đâu ra vì sao mang số kiếp đính mệnh cuả bà ngoại tôi?  Vì sao nào ̣đang chờ đợi tôi?   Tôi nghĩ đến sự̣ huyền diệu mông lung cuả tạo hoá, bên cạ̣nh cái hùng vĩ, đồ sộ và lồng lộ̣ng cuả khoa học phát minh, khi những phi hành gia cuả Mỹ và Nga như Louis Armstrong đã vượt ra khỏi bầu khí quyển, từ không gian không trọng lượng mà nhìn về quả điạ cầu, bỗng nhỏ bé hẳn đi như thân phận li ti cuả tỷ tỷ tỷ con người chen chúc tranh nhau trên mặt đất.


Tôi quay lại nhìn đường chân trời rực rỡ cuả đô thị Nữu Ước, lấp lánh trong màn ̣đêm như cạnh tranh với những vì̀ sao ở tấn đỉnh cao cuà̉ màn đêm. Quên đi thời gian, tôi đứng lặng trước thành phố đã lên đèn. Hình ảnh người phụ nữ cầm chiếc đuốc soi bờ đại dương sừng sững một mình ở cưả biển, để luôn luôn chào đón nhân loại khốn cùng đang đổ x̀ô về cứu cánh cuà đường ̣̣đi không đến, ngày và đêm, tự nhiên làm tôi nhỏ nước mắt.

Tôi không biết mình nhỏ nước mắt vì ai, cho ai. Tôi đâu dám bắt chước con người tài tử Nguyễn Du khóc người ba trăm năm trước để hỏi người ba trăm năm sau. Có lẽ tôi khóc vì tôi nhớ lại cuộc di cư ngày nào. Tôi nhớ đến khuôn mặt đẹp và ánh mắt sầu muộn của bà ngoại tôi. Giấc mơ hồn nhiên của tuổi thơ, sẽ làm cô giáo nuôi bà ngoại ở Huế, tôi đã bỏ mất. Bà không còn chỉ là bà ngoại, mà là hình ảnh Tĩnh Tâm, người phụ nữ sinh trước tôi hai thế hệ. Hình ảnh bà mang tôi về tuổi thơ xứ mẹ. Hình như tôi khóc vì trong lòng tôi cũng mang hình ảnh những cỗ quan tài như trong giấc mộng của Tĩnh Tâm. Vì tôi mang nặng một nơi chốn đã đi vào tiềm thức tôi, một nơi chốn mà thân phận đàn bà là tiếng kêu rên xiết trong những tập tục và thành kiến văn hóa bóp kẹp con người, nơi chốn của một cuộc chiến tranh tức tưởi, và những hỗn loạn lịch sử vời vợi thương đau, đã gây nên sự phá sản, không phải chỉ vật chất, kinh tế, mà e còn lan sang địa hạt tinh thần.

Tôi tự hỏi có người phụ nữ Việt Nam nào nhạy cảm, là nạn nhân của xã hội chiến tranh đó, mà không mang trong lòng những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm? Tôi may mắn sinh ra trong một thời đại không phải gồng gánh, bưng xách như bà nội tôi, không phải cưới vợ hầu cho chồng như bà ngoại tôi, không phải là nạn nhân của tục tảo hôn, không phải tủi sầu vì không có con trai. Tôi may mắn không phải đi vớt xác con, đi nhận xác chồng, xác con trai như những người bất hạnh của cố hương đầy đau khổ.

Tôi tin vào thuyết tiềm thức tập thể của nhà tâm lý học Carl Jung. Cho nên tôi đứng đó, đối diện tượng Nữ Thần Tự Do, bên bờ biển Đại Tây Dương, là một người đàn bà di dân đến từ nước Việt Nam nhỏ bé, trước ngưỡng cửa thế kỷ hai mươi mốt, nhớ đến hương hồn của bà ngoại và nghe tiếng kêu khóc của những người đàn bà Việt Nam xấu số. Tôi đến Mỹ khi còn là đứa bé gái hăm hở trước cuộc đời. Cuộc di cư đã cho tôi lối thoát và cơ hội để áp dụng sự phân tích của Simone de Beauvoir vào đời sống của chính mình. Nhưng tôi vẫn nhỏ nước mắt, hướng về Tây phương và quay lại Đông phương, thường tự hỏi mỗi nơi sẽ đem lại những gì cho tính nhạy cảm và cái tiềm thức văn hóa trong tôi. Nước mắt tôi vẫn nhỏ, cho dù bề ngoài tôi cứng rắn, vì tôi đã nghe, đã chứng, đã xót xa trong lòng về những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.

Dương Như Nguyện ̣(c)1988
Trích từ Mùi Hương Quế, xuất bàn đầu năm hai ngàn (c)2000, bời Nhà Xuất Bản Văn Nghệ (Orange County, California)  
Renewed (c)2023 (Houston, Texas)


 ENGLISH TEXT  












Monday, November 25, 2019

v/d van chuong tieng Viet: nhin lai the ky 20 va hien tai

SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG VIỆT HIỆN ĐẠI VÀ CHÍNH TRỊ GIỚI TÍNH: LÓ RẠNG BÌNH MINH.





(CÁI NHÌN VỀ SÁNG TÁC VĂN HỌC NỮ QUYỀN VÀ “VĂN CHƯƠNG GỢI TÌNH”


TỪ MỘT PHỤ NỮ MỸ GỐC VIỆT)



Tác giả bản tiếng Anh Wendy Nicole NN Duong (Như Nguyện)



Dịch giả: Hiếu Tân



(Tác giả đã hiệu đính, sửa đổi cho rõ nghiã và bổ sung bài viết, thêm vào vài nhận định cho độc giả Việt Nam)



CHÚ THÍCH CỦA TÁC GIẢ:


Năm 2018 Nhà Trắng phải đối diện với những cáo buộc nhơ nhuốc của một nữ diễn viên ngôi sao phim khiêu dâm. Tổng thống Mỹ bị coi là đã thốt lên những lời tục tĩu về việc sờ soạng phụ nữ. Đệ nhất Phu nhân đi giày nhọn gót, quần áo bó sát đúng mốt làm nổi bật kích cỡ vòng ngực của bà, phô bày hai cánh tay trần và thân hình “đồng hồ cát” đầy khêu gợi. Nhiều phụ nữ Mỹ coi bà là “trang nhã,” và vương giả. Tất cả những tin tức ấy nổi lên trên nền của một phong trào “ME TOO” ("Tôi Cũng Thế") trong đó những ngôi sao mới lên, những nữ diễn viên Mỹ tung ra các câu chuyện họ bị đàn ông quyền lực của Holywood quấy rối và lạm dụng tình dục. Tôi nhìn lại cộng đồng sắc tộc Việt Nam của tôi ở Mỹ, và quyết định đưa đăng bài bình luận này. Khởi thảo từ năm 2008, bài viết bàn về di sản văn chương của Anais Nin[1], và đưa ra cái nhìn tổng quan về những sáng tác văn học có tính cách nữ quyền và văn chương tình cảm xã hội của tác giả nữ ở miền Nam Việt Nam (nền cộng hoà không-cộng sản đã quá cố) đầu thập niên 1970, cũng như các tác phẩm của phụ nữ trong cộng đồng lưu vong người Mỹ gốc Việt hình thành sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, và đồng thời vài tác phẩm của phụ nữ Việt Nam (nước cộng sản) ngày nay.






I. NHÌN LẠI THẾ KỈ 20 : VĂN CHƯƠNG GỢI TÌNH VÀ TRẬN CHIẾN GIỚI TÍNH



Trong những thập niên 1920 và 1930, nhà văn nữ Anais Nin đã làm một điều không tưởng. Bà tự xuất bản. Bà hành nghề tâm lí trị liệu tự học để trừ tà tuổi thơ của bà, và có chuyện lăng nhăng tình ái với Henry Miller (theo những lời đồn trong giới văn chương, thậm chí với cả vợ của ông – một vụ tay ba dâm dật!). Để hỗ trợ cho sáng tác văn chương của họ, Anais và các bạn của bà viết những thứ có thể gọi một cách đại khái là khiêu dâm, một đô la một trang – theo lời của chính bà, đó là con đường đưa Anais Nin vào vương quốc văn chương mà trước đây chưa có một nhà văn nữ nào bước vào – lĩnh vực ấy là của đàn ông, xưa nay vẫn thế. Đàn ông viết loại sách khiêu dâm kích thích trí tưởng tượng phong tình của đàn ông, trong đó phụ nữ trở thành những ngôi sao tình dục, không tình cảm, thậm chí không có không có chút quyền gì và không được kiểm soát thân xác của chính họ. Trong những tưởng tượng ấy, phụ nữ “rên rỉ và đòi nữa.” Phụ nữ hành động nghiêm trang, bẽn lẽn và kín đáo, nằm xuống và tôn thờ những bạn tình đàn ông của họ, hay những kẻ lạm dụng họ, như thần thánh. Sự thiếu kiểm soát đối với cơ thể phụ nữ mà giới nữ phải chịu, trong bản thân nó, là một nguồn tưởng tượng cho những đàn ông tán tỉnh, gạ tình. Sự thiếu kiểm soát của giới này trở thành nguồn quyền lực của giới kia. Quả thật, trận chiến cổ xưa nhất của loài người là trận chiến giữa hai giới. Cổ xưa hơn bất kì cuộc chiến tranh nào, cuộc chiến tranh giới tính diễn ra hằng ngày mà không có trận địa của thây rơi và máu chảy. Đó là kiểu trận chiến duy nhất nơi các chiến binh thật ra cùng tồn tại, cùng tương tác, và cùng hành động. Họ ôm nhau, gắn chặt với nhau trong quá trình chiến đấu -- kiểu trận chiến duy nhất mà kết quả là sống sót và sinh nở, chứ không phải hủy diệt loài người. Tuy nhiên, đó cũng là kiểu chiến trận có thể làm cho chúng ta bất lực, đưa chúng ta vào tuyệt chủng nhanh hơn bất kì vũ khí hạt nhân nào: hãy tưởng tượng một thế giới toàn những đàn ông đàn bà bị thiến không bao giờ cặp với nhau được! Tình dục trở thành một phương tiện cho cuộc chiến tâm lí giữa đàn ông và đàn bà, mà cũng là mối ràng buộc qua đó họ biểu lộ tình yêu và nhu cầu cần có nhau, là căn bản khiến họ có thể chung sống và phụ thuộc lẫn nhau.



XEM XÉT LẠI CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA GIỚI TÍNH





Tôi cho rằng trận chiến cuối cùng (hay là hòa giải) giữa đàn ông và đàn bà phải được tiến hành trong hiểu biết. (Bàn thân Nin cũng thừa nhận rằng ở địa hạt trí tuệ, người đàn ông hiểu biết đành phải công nhận đối tác của mình - người đàn bà hiểu biết – kể như nàng là một con người không giới tính để họ có được cuộc đàm luận đầy hiểu biết. Nhưng khái niệm này thật là vô nghĩa, vì mục tiêu cuối cùng của trận chiến trí tuệ giữa hai giới là để đánh tan những vai trò giới tính khuôn mẫu, để giáo dục và soi sáng cả hai giới về bản chất con người và xã hội hiện đại.



Theo triết gia nữ quyền Simone De Beauvoir của thế kỉ 20, chủ nghĩa Marx (cái gọi là cuộc cách mạng lao động của thế kỉ 20) định nghĩa bước chuyển xã hội từ mẫu hệ sang phụ hệ là bước chuyển tự nhiên của phân công lao động, do quá trình văn minh hóa từ từ gây ra; quá trình này, cùng với khoa học thực nghiệm và công nghệ, đã đưa con người ra khỏi những “hang động” của thời tiền sử. Tuy nhiên, kinh nghiệm giải phóng thuộc địa ở thế kỉ 20 của “Thế giới thứ Ba” cho thấy rằng trong cuộc cách mạng mac-xit này, phụ nữ Thế giới thứ Ba cũng bị bóc lột khốn khổ như giai cấp vô sản: chủ nghĩa Marx trong các nước đang phát triển thật ra đã bóc lột phụ nữ và thí thân họ dưới nhãn hiệu giải phóng khỏi kiềm tỏa của thực dân qua chủ nghĩa dân tộc. Kinh nghiệm này là, và nên là, case in chief [2] cho phụ nữ Việt Nam, một tập thể chưa bao giờ được khám phá, khảo sát, hoặc giải-kiếntạo (deconstruct) đầy đủ trong văn học chính trị xã hội hiện đại như chúng ta biết ngày nay (năm thứ 19 trong thế kỉ 21). Thất bại của chủ nghĩa Marx thế kỉ 20 đã cho thấy: qua việc tái cơ cấu các vai trò của giới tính như một phần của phân công lao động, tình trạng bất bình đẳng giới càng tăng thêm thay vì bị xóa bỏ.



Bởi vậy, trong trận chiến tri thức cuối cùng giữa hai giới nam nữ nhằm xóa bỏ và viết lại các vai trò của giới tính, các nhà nữ quyền phương Tây có xu hướng đưa ra hình ảnh “người phụ nữ bị thiến” (mượn tựa đề cuốn sách của Germaine Greer). Khi sức hấp dẫn tình dục bị tước bỏ khỏi các quan hệ giới tính, “người phụ nữ bị thiến” chắc chắn ngang hàng với đối tác của cô ta, “người đàn ông cũng bị thiến” để cả hai có thể thực hiện cuộc chuyện trò trí thức –tiếp quản trí tuệ bằng cách tước bỏ khả năng tình dục của cả hai giới. Liệu điều ấy có nghĩa rằng, nói theo nghĩa đen, cuộc đàm luận trí thức ấy (cách xem xét lại vai trò của hai giới ở mức độ trừu tượng và điệu nghệ nhất) chỉ có thể xảy ra giữa những người tình dục đồng giới có hiểu biết trong cách họ tự đối xử với mình và đối xử với nhau, hoàn toàn phi giới tính? Một khái niệm như thế không những xúc phạm đến nhân quyền (ngoài tiềm năng gây ra cãi cọ om xòm về định nghĩa chữ “trỉ thức” hay “hiểu biết” mà chính ra hình ảnh những “người bị thiến” nói chuyện với nhau cũng là một ngụy biện, nguy hiểm không hơn không kém cái không tưởng của thể chế mác-xít do nhà nước độc tài kiểm soát mà George Orwell đã mô tả và lên án.




Trong khi đó, thực tế “dài dài” vẫn như sau:



(i) đàn ông vẫn nhìn và tìm kiếm đàn bà như “đối tượng tình dục” hoặc “đối tượng để lạm dụng/bóc lột” (điều này bộc lộ quá trễ trong phong trào “ME TOO” ở Mỹ, đưa ra ánh sáng nhiều câu chuyện động trời lẽ ra đã phải bộc lộ từ thời... Marilyn Monroe! Phong trào “ME TOO” của nước Mỹ khởi phát ở Holywood, do đó, quả sức chậm trễ một cách vô cùng tai hại!)



(ii) đồng thời, những phụ nữ trí thức bằng mọi cách phải tự thoát ra khỏi đấu trường “đối tượng tình dục,” để được hiểu một cách nghiêm túc, để tự bảo vệ bản thân chống lại lạm dụng hoặc bóc lột, để tạo cơ hội bình đẳng theo ý họ. Có thể nảo một phụ nữ đạt được điều này mà không phải “tự thiến” đi, biến mình thành một người không giới tính?



Như thế, tính cách chính trị để nghiêm túc hóa vấn đề bất bình đảng của nước Mỹ đã tạo ra một sân chơi ngang bằng hoàn toàn đạo đức giả mà thôi, chứ không thay đổi được hiện trạng hoặc hiện thực của xã hội. Tôi đề nghị rằng trong thời buổi hiện đại của chúng ta (đầu thế kỉ 21) người phụ nữ có hiểu biết sẽ không phải cố gắng, hoặc bị yêu cầu cố gắng, tự tước bỏ đi nhãn quan nữ tính hay bản sắc giới tính của mình để tự biến mình thành một hữu thể phi giới tính cho bất kì cuộc đàm luận nào đòi hỏi trí tuệ. Tuy nhiên người đàn ông tình dục dị giới (hererosexual) có hiểu biết cũng vẫn phải tự vứt bỏ đi “cái nhìn đắm đuối của giống đực” có nghĩa là cái thôi thúc nguyên thủy hướng tới đàn bà như những đối tượng của ham muốn, để chấp nhận người bạn nữ của mình như một con người phi giới tính trong cuộc trò chuyện trỉ thức. Điều này giống như gánh nặng gấp đôi chất lên người đàn ông trỉ thức có tình dục dị giới (hererosexual), một nhiệm vụ vốn tự nó đầy mâu thuẫn: trước hết anh ta phải tự chinh phục mình, tức là tự khắc chế thôi thúc tình dục của anh ta, trước khi anh ta có thể chiến thắng sự bất bình đẳng và những tâm lí khuôn mẫu về vai trò giới tính, chung quy tất cả cũng chỉ vì lợi ích của mẹ, của vợ, của cô dì, chị em, bạn tình, bạn đời hay đồng nghiệp nữ của anh ta. Nói cách khác, cuộc trò chuyện có trí tuệ đòi hỏi người đàn ông có tình dục dị giới phải tự “thiến” mình. (Tôi đã có lần nghe người ta nói rằng cách tốt nhất để làm cho một người đàn ông bất lực là cho một cô gái đẹp lao vào một cuộc trò chuyện đầy trí tuệ với anh ta, trên giường!) Từ đó suy ra rằng cho dù người đàn bà xinh đẹp và hấp dẫn tình dục đến đâu, cô ta sẽ “thiến” (làm liệt) không những chỉ bản thân cô ta mà cả bạn tình của cô ta nữa, khi vẻ đẹp trí tuệ hay quá trình suy nghĩ của cô bắt đầu phủ bóng lên vẻ đẹp thể chất của cô. Do đó, người đàn bà thông minh có thể trở thành Medusa với một mớ tóc đầy rắn độc, cô ta có thể biến đàn ông thành đá! Người đàn ông nhìn đắm đuối thân thể cô sẽ bị đe dọa, và “tụt hứng,” có thể nói là vô cảm, hoặc có thể bị giết, khi đối mặt với việc phân tích phức tạp những ý nghĩ bên trong cái đầu của cô ấy. Thách thức của việc nhận ra bạn tình của mình là người thông minh có thể biến thành án tử hình cho xung lực tính dục của anh ta.



Đây chính là sự tương quan giữa văn chương sáng tạo và chính trị giới tính, có thể trở thành một nghiên cứu trường hợp cụ thể (case-study) cho nhiệm vụ trí tuệ trong công cuộc soạn thảo lại vai trò của giới tính để đảo ngược phân công lao động xã hội, hoặc cải tổ sự bất bình đẳng về giới tính. Về điểm này, tôi muốn xem xét lại tấm gương của Anais Nin thế kỉ 20.



PHỤ NỮ VIẾT “VĂN CHƯƠNG GỢI TÌNH” (“literary erotica”)



Giọng văn đẹp của Anais Nin mang hình ảnh người đàn bà gợi tình đến cho bạn đọc khao khát trong thời kì sau Thế Chiến – một thời kì tinh thần con người gần như tan hoang sau cuộc tàn phá hủy diệt châu Âu cũ. Anais Nin trở thành hình ảnh mà văn học Mỹ thế kỉ 20 mệnh danh là “nhà văn tầm thường vĩ đại,” với tác phẩm trộn lẫn hư cấu và phi hư cấu, đến mức không ai thật sự biết được cuốn Nhật kí gợi tình nổi tiếng của bà có phải tự truyện hay không, hay chỉ là một mớ những lời dối trá. Các nhà phê bình và các học giả tranh cãi liệu có thể gọi Anais Nin là nhà nữ quyền không, phải chăng tác phẩm của bà là tiền lệ cuộc cách mạng tình dục của phụ nữ những năm 1960? Mặc dù không ai đi đến nhất trí hoặc kết luận, Nin vẫn trở thành nổi tiếng như một nhà văn trữ tình nhưng... nhảm nhí. Một điều rất thật, phải công nhận: người đọc khoái chí tìm thấy vẻ đẹp của giọng văn xêch xi của Nin, cái trắng trợn bẽn lẽn (một mâu thuẫn trong tâm lí và trong từ ngữ) của các nhân vật nữ Anais tạo ra và sự tự do thoát ly gánh nặng đạo đức trong tâm khảm họ.



Anais Nin đã mang cái lãng mạn nữ tính, chất thơ sáng tạo và chiều kích nghệ thuật vào những gì có thể dễ dàng phân loại là khiêu dâm - loại văn chương khêu gợi nói đến tình dục chỉ vì tình dục, loại viết lách tình dục bừa bãi nhằm tạo khoái cảm nhục dục cho một nhóm độc giả “ngầm” (trái ngược với loại tác phẩm thông thường có chủ đề của các nhà văn có chủ trương xã hội trong việc đề cập đến cuộc chiến giới tính). Cái đẹp trong tác phẩm của Nin đầy ắp những yếu tố gợi dục, kích thích dục tình của chúng ta theo kiểu lãng mạn chủ nghĩa của văn chương... phòng the! Tuy nhiên, trong tất cả cái gợi tình này, vẫn có nỗi buồn “xuyên thế kỷ” của cô điếm phóng đãng như Bijou, hay cái cô đơn “tột cùng vũ trụ” của một nữ trí thức như Elena. Nhân vật của Nin trở thành người đàn bà nạn nhân của tính dục – cô ta gây nguy hại cho bản thân trong một xã hội mà tình yêu và tình dục vẫn còn bị đàn ông kiểm soát. Theo nhiều cách, Nin trở thành sự sùng bái huyền thoại thần Ái tình trong văn học Anglo-America. Ngày nay, những câu chuyện khiêu dâm mà bà viết được xuất bản như văn chương kinh điển.



Tôi không là người hâm mộ Nin, tôi cũng không viết nhận định này để định nghĩa khiêu dâm hay văn chương gợi tình, hoặc phân biệt hai thứ. Ranh giới này bị mờ đi trong các tác phẩm như của Anais Nin. Tôi thấy những cố gắng định nghĩa như thế là hoàn toàn vô ích và quá từ chương. Cho dù không có một định nghĩa pháp lí hay định tính, thì chúng ta và những bạn đọc văn chương (cũng như những quan tòa của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ canh giữ tự do ngôn luận ở Mỹ) tất cả đều biết và nhất trí rằng khiêu dâm là bẩn thỉu mà văn chương gợi tình có thể là nghệ thuật. Chúng ta phân biệt hai thứ bằng cách đọc để nhận diện hai thứ khác nhau, không cần phải phân tích chúng bằng... phương pháp luận!



II. MỘT CÁI NHÌN TỪ BÊN NGOÀI VÀO SỰ HÌNH THÀNH “VĂN CHƯƠNG GỢI TÌNH” HOẶC CÁC SÁNG TÁC NỮ QUYỀN CHO VIỆC PHÂN TÍCH VAI TRÒ GIỚI TÍNH TRONG VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM -- HAI BỜ ĐẠI DƯƠNG.



Ngày nay ở Mỹ, hơn 70 năm sau khi Anais Nin bán những trang khiêu dâm của bà với giá một đô la một tờ, thì xảy ra “hiện tượng” sau đây: trong cộng đồng sắc tộc ít người biết của người Việt lưu vong chủ yếu hình thành từ Nam California (và trong một phạm vi nhỏ hơn, tôi muốn nói luôn đến môi trường văn chương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cũng được “xuất khẩu” qua cộng đồng lưu vong bên Mỹ) hình như đang xuất hiện một dòng sáng tác bởi những phụ nữ Việt Nam mô tả những cảnh làm tình và đề cập đến chủ đề tình dục. Trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã có những nhà văn nữ tự xuất bản, những cá nhân mà theo tôi hoàn toàn đột ngột, tự nhiên muốn viết tình dục để “cách mạng hóa” bản thân hoặc biến họ thành duy nhất hay mạnh mẽ. Ở Việt Nam cũng đã xuất hiện những nhà văn nữ viết tình dục như biểu tượng cho một cái gì khác, về tâm lí và chính trị xã hội cũng sâu sắc như nỗi sợ hãi của phụ nữ về sự hủy diệt văn hóa và chủng tộc, như thể phụ nữ đã trở thành những tác nhân mang nặng lời nguyền phủ lên toàn bộ đất nước và giống nòi. (Trong nước Việt Nam cộng sản, có “Bóng Đè” của Đỗ Hoàng Diệu mô tả tình dục trắng phớ và “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư, mô tả một vụ hãm hiếp giai cấp định mệnh bi thảm) (cả hai tác giả là những nhà văn nữ trẻ khi sách của họ được xuất bản lần đầu).



Tôi đành phải gọi xu hướng này là một “Hiện tượng” có mặt trên cả hai phía của Thái Bình Dương.


Dưới con mắt bạn đọc sắc sảo, thì một số cảnh mô tả tình dục mà “các nhà văn nữ” này đưa ra là xác thực, một số thì không, coi như là cố gắng có trù tính của nhà văn khi viết tình dục một cách rõ ràng dứt khoát, hoặc để gây sốc, hoặc cố ý muốn tạo một không khí giả tạo của lòng can đảm trí thức tiên phong hoặc chung quy chỉ là một sự thích thú phức tạp tự kỷ của tâm lý, hoặc (trong trường hợp nước Việt Nam cộng sản) sáng tạo văn chương có thể đến từ nỗi thất vọng tập thể của cả giống nòi và văn hóa được trình bày qua tiếng nói phụ nữ.



Về tổng thể, tính “hợp pháp” hay vị trí của những nhà văn nữ này và tác phẩm của họ trở nên rất khó đánh giá hay để đưa vào tuyển tập, vì hai lí do:




(1) Ở nước Việt Nam cộng sản không có hay có rất ít tự do ngôn luận thật sự và vì thế chưa bao giờ có một môi trường đích thực cho nghệ thuật phát triển sung mãn; “sự cằn cỗi” này đưa đến tình trạng sau đây: trong các sản phẩm nghệ thuật bất kì mô tả rõ ràng rành mạch nào về phụ nữ trong các hảnh vi tình dục, hoặc những cuộc gặp gỡ tình dục hay khao khát xác thịt, có thể bị coi là một hình thức sáng tác bất đồng chính kiến được tung ra để nhổ bật rễ hiện trạng chính trị; và




(2) trong cộng đồng lưu vong bên ngoài nước Việt Nam cộng sản – nhiều người trong số các nhà văn nữ tự xuất bản – một hiện tượng rất đáng buồn điển hình cho khung cảnh “sáng tác” của cộng đồng lưu vong, nhanh chóng dẫn tới sự xói mòn các tiêu chuẩn văn chương.





Trong cả hai môi trường, không có một tiêu chuẩn nào về bảo vệ người tiêu thụ khỏi thao túng của thị trường cho các tác phẩm văn chương, cũng không có tiêu chuẩn rõ rệt nào về nghệ thuật, hay bất kì loại hợp tuyển nào ở khoảng giữa, một phân biệt rõ rệt nào được phán xét bởi một hội đồng độc lập của độc giả kỳ vọng và nhà phê bình – ‘những người nhận’ nghệ thuật ngôn ngữ trong chu kỳ truyền thông (tôi mô tả thành một chuỗi như sau):




NHÀ VĂN - NGƯỜI PHÁT NGÔN - NGƯỜI TRUYỀN THÔNG →THÔNG ĐIỆP →PHƯƠNG TIỆN/KÊNH →ĐỘC GIẢ - THÍNH GIẢ - KHÁN GIẢ -NGƯỜI NHẬN THÔNG ĐIỆP




Trong việc quan sát “Hiện tượng này,” tôi không thể không nêu câu hỏi: tại sao những phụ nữ thuộc văn hóa "mẹ" của tôi, một nền văn hóa hình thành trên truyền thống mẫu hệ của các nữ anh hùng Trưng –Triệu[3] và sự phóng khoáng của Hồ Xuân Hương,[4] nay lại bước theo con đường mòn của Anais Nin “tầm thường vĩ đại,” mà chưa chắc đã với tới được hay không hình thức gợi tình cực kì tinh vi và trữ tình kiểu Anais?





Hiện tượng này xảy ra trên 70 năm sau khi Anais Nin bước vào giới viết khiêu dâm của đàn ông, 40 năm sau cuộc cách mạng tình dục của Mỹ và phong trào giảỉ phóng phụ nữ của những năm 1960 (song song với việc Francoise Sagan phơi bày tình trạng tình dục bừa bãi không mục đích và vô trách nhiệm của giai cấp tư sản ở Pháp/ Tây Âu) và năm thứ 20 sau Độc thoại của Âm hộ lên đường lưu diễn từ sân khấu Broadway của Mỹ.





VĂN CHƯƠNG NỮ GIỚI MIỀN NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1975:



Thật thú vị khi tôi phải nêu nhận xét rằng sử dụng khêu gợi dục tình qua hình thức phục tùng của giống cái, hoặc đem việc phụ nữ là nạn nhân tình dục vào môi trường viết tiểu thuyết thật ra KHÔNG có gì lả mới lạ đối với tiểu thuyết hay truyện ngắn Việt Nam, qua các cây bút phụ nữ miền Nam hiện đại trước cuộc "đổi đời" 1975. Các nhà văn tư sản nữ của Nam Việt Nam không cộng sản đã làm điều này, có kĩ năng, kĩ xảo và đẳng cấp. Trong dòng các nhà văn nữ tài năng đó, tôi muốn nhắc đến Túy Hồng, Trùng Dương, Lệ Hằng, và Nguyễn Thị Hoàng, mà tôi coi là "bộ bốn nổi bật" trong số các nhà văn nữ nổi tiếng ở Nam Việt Nam trước khi cộng sản chiếm miền nam năm 1975 (tôi không thể kể hết các cây bút đáng kể khác, trong phạm vi bài viết này).



Phức tạp nhưng không viển vông, Túy Hồng và Trùng Dương viết (trong trường hợp Túy Hồng, bà viết bằng lời văn "ngọt ngào pha lẫn với chanh chua" của phương ngữ Huế[5]) những câu chuyện về quyến rũ, phản bội, mất mát ngây thơ, bất công, cưỡng bức và tan vỡ ảo tưởng về hôn nhân. Giọng điệu họ đưa ra là giọng của người đàn bà cám dỗ, hay bị cám dỗ, có khi phi đạo đức, hoặc người đàn bà vỡ mộng và đau khổ tuyệt vọng, bị chấn thương quá sâu nhưng vẫn đày thân trong những cảnh sống yên bình, trong nỗi nhớ nhà, trong luyến tiếc, và thậm chí trong cái chết bất đắc kì tử! Văn của Túy Hồng luôn là giọng văn phụ nữ Việt Nam đích thực (trong tiếng Việt, câu miêu tả thích hợp với giọng văn của Túy Hồng là ngậm ngùi mà đanh đá). Trái lại, văn cuả Trùng Dương thì lạnh lùng, ám ảnh, toan tính, xa vắng, và do đó, triết lí cao siêu như ngày phán xử!



Song song với hoài cảm quyến rũ của Túy Hồng, trong một truyện ngắn đáng nhớ về một nữ tu trẻ bị hiếp, người kể chuyện tinh tế và táo bạo Trùng Dương phơi bày tính tàn bạo của đàn ông và bản chất “ẩu, bậy” của dương vật theo một cách thức độc đáo được tạo dựng qua sự sắc lạnh của văn bà khiến cho lối viết của bà “giống như của một người đàn ông!”



Nhắc đến Trùng Dương và người nữ tu mang thánh giá bị hiếp, thì tôi bắt buộc phảỉ nhắc đến cô gái nhỏ tên Nghi, hoa khôi xứ Huế cuả Tuý Hồng, "tác phẩm" xinh tươi ngây thơ và toàn thiện nhất cuả người mẹ tiểu tư sản đất Thần Kinh, nhưng lại là nạn nhân thống khổ nhất cuả lịch sử Việt Nam. Sau những kinh nghiệm đau thương chồng chất lên tuổi thơ trong thời kỳ chiến tranh Việt -Pháp, khi tròn 16 tuổi vừa biết yêu trong sạch, cô bé Nghi đã lọt vào cặp mắt quỷ râu xanh cuả người bố dượng, đã bắt giam cô bé sau khi vu oan tội chính trị lên đầu cô bé trong giới học sinh, để tạo cơ hội cưỡng hiếp cô bé cho đến chết, rồi thân xác đẫm máu cuả Nghi được mang trả về cho người mẹ không hề biết con gái mình là nạn nhân cuả bố dượng, và mỉa mai éo le thay, cô bé Nghi trở thành biểu tượng cách mạng để khích động lòng yêu nước cuả tuổi trẻ (một sự dối trá gần như đi đôi với tội ác khủng khiếp cuả gã bố dượng, mặt quỷ cuả "dương vật" ẩn hiện trong mặt nạ con người, hiếp và giết con trong khi làm chồng của mẹ).



Ai dám nói rằng hai tác phẩm kể trên là văn chương tồi bại, khiêu dâm, hay mua vui trữ tình theo truyền thống Anais? Đây là những tác phẩm văn chương chính trị xã hội đích thực và là bản cáo trạng tội ác của "dương vật" trên phẩm cách và xác thân người nữ, sự đày đọa của giới tính nữ và chất liệu nữ, trong bối cảnh lịch sử và chiến tranh Việt Nam. Thân phận nhục nhằn của người nữ được phục hồi nhân bản qua ngòi bút nữ. Tôi xin nhắc lại rõ rệt: đây không phải là hai tác phẩm "văn chương gợi tình"-- cái gọi là "literary erotica" mà là tác phẩm văn chương với ảnh hưởng xã hội và chính trị, vượt hẳn trên đẳng cấp cuả cáí gọi là "thị trường ngôn ngữ." Cả hai tác phẩm và hai tác giả "kiện tướng" của văn chương nữ giới miền Nam nói đến tội ác cuả dục tính, tính cách "tử vong" từ cái đẹp thể chất cuả nữ giới, nhưng hoàn toàn không hề mô tả một "scene" tình dục hay khoái cảm tình dục nào cả để biến cái đẹp thể chất cuả người nữ trở thành tòng phạm của tội ác.



Trong một thị trường tiêu thụ hoàn toàn khác, có lẽ một Lệ Hằng của môi trường ít học hơn vả “chợ búa” hơn, đã mô tả và bình thường hoá vẻ đẹp bi thảm và đầy nhục cảm của những nữ thị dân trẻ tuổi cuả miền nam. Lệ Hằng ghi nhận và miêu tả những người đẹp này, thích thú được làm tình với những người đàn ông mà họ yêu – những người đàn ông nắm quyền lực trong xã hội Nam Việt Nam trước khi Sài Gòn thất thủ – kỉ niệm của những phụ nữ này về những cái “tổ uyên ương” trong đó những người đàn ông quyền lực nuôi “bồ” của họ.



Ở một trình độ cao hơn và tinh tế hơn của thị trường chữ nghĩa là ngôn ngữ trừu tượng và phong cách cao sang của Nguyễn Thị Hoàng – người đưa bạn đọc của mình vào vùng đất cấm – cuộc dan díu giữa những trai trẻ và những phụ nữ lớn tuổi hơn, có nghề nghiệp (trong trường hợp tệ nhất – nghề giáo!). Không lôi cuốn bạn đọc của bà vào bất kỳ cảnh làm tình trắng trợn nào, chỉ tạo ra một không khí âm u đầy nhục cảm được gợi lên bằng cách lần lượt miêu tả thế giới nội tâm của từng nhân vật, Nguyễn Thị Hoàng đã cố gắng thay đổi thế giới của nhà văn thành thế giới của nhân vật, trong đó tính lãng mạn, nhục cảm trừu tượng và tính đàn bà tất cả nhập một. (Tất nhiên các cán bộ và các chính ủy cộng sản có thể kết tội lời văn, cốt truyện và xã hội của Lệ Hằng và Nguyễn Thị Hoàng là suy đồi độc hại, điển hình của văn hóa tiểu tư sản thối nát cần phải “cải tạo” hay đơn giản là... thủ tiêu).



Một điều vẫn còn rõ rảng – tính chất nhục cảm và đối kháng xã hội trong tác phẩm của những nhà văn nữ tiêu biểu trước 1975 này, nằm ngay trong cốt truyện, sự phát triển tính cách nhân vật, và sự vận động của chủ đề hay cách thức tả tình tả cảnh – tất cả những yếu tố cần thiết của việc viết tiểu thuyết, đã làm cho hư cấu của họ trở nên đáng tin và tự nhiên. Các tiểu thuyết gia phái nữ cuả miền Nam này không bao giờ bàn đến cơ quan sinh dục hoặc khoái cảm tình dục. Họ không cần làm thế. Theo các bút pháp khác nhau được truyền vào và gắn kết với phong cách biểu cảm của họ, những nhà văn này làm cho người ta biết đến cái thế lưỡng nan của phụ nữ. Đó là thực chất của hư cấu - các nhà văn nữ viết về thế lưỡng nan của phụ nữ – thế nào là một phụ nữ, thế nào là tác nhân ở một nơi mà sự tàn phá gây ra bởi "dương vật" cũng khủng khiếp như sự tàn phá cuả chiến tranh, nơi mà đạo Khổng cổ hủ đã phài biến đổi với ảnh hưởng nửa vời của phương Tây, nơi hoà bình chỉ tồn tại tạm thời, và văn hoá được bao bọc trong đời sống thị thành, bị bao vây bởi cuộc chiến tranh, gần như thể sự tàn phá đang xẩy ra ở một nơi nào khác, đã bị quên lãng, quên bởi vì nó diễn ra trong các làng mạc, nhờ đó thành phố có thể ôm giữ cái ảo ảnh của hoà bình, trong đó nẩy sinh môi trường cuả văn chương thành thị... Các nhà văn/nữ nghệ sĩ này có thể không sáng tác với lợi ích xã hội trong tâm trí, nhưng việc họ ghi lại trải nghiệm lịch sử, nỗi đớn đau cuả thân phận nữ, hay sự việc “lát cắt của cuộc sống” (slice of life) trong tư thế lưỡng nan của con người, tất cả đã tự nhiên tạo ra lợi ích vô bờ trong khía cạnh nhân bản. Và đó là điều làm cho tác phẩm của họ sống mãi.



Tất nhiên với việc cộng sản chiếm đóng miền nam năm 1975, hư cấu “lát cắt của cuộc sống” (slice-of-life fiction) hay trải nghiệm lịch sử qua ngòi bút của các nhà văn nữ Nam Việt Nam đã bị loại bỏ không thương tiếc cùng với giai cấp trung lưu của Sài Gòn cũ. Ở phía bên kia của Thái Bình Dương, trong “nước Mỹ Việt Nam” (Vietnamese America) mới hình thành, những cuốn sách này được tái xuất bản thoái mái, để nuôi người lưu vong bằng nỗi nhớ quê hương -- cái “có thể đã là...”





II. NHU CẦU LÓ RẠNG BÌNH MINH





Thế lưỡng nan và sự nhục nhằn của người nữ trong tư thế "nạn nhân cuả tình dục" đã cho ta biết những gì thông qua những tác phẩm tình dục nặng kí của giới gọi là những nhà văn nữ Việt Nam ngày nay, khi chiến tranh đã trở thành quá khứ, và một xã hội mới, không còn bị ám ảnh bởi chiến tranh, đã đến tuổi trưởng thành trong thời gian hòa bình, tất cả dưới sự che phủ và truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam ngày nay (trái ngược với những tình cảm chống cộng sôi sục trong một cộng đồng lưu vong sóng gíó của những người tị nạn chính trị Việt Nam tại Mỹ) ?



Tôi tự hỏi có phải cái “Hiện tượng” ấy đơn giản có nghĩa là, trong khi những Trùng Dương, những Túy Hồng cuả ngày xưa đã mất đi hay chìm vào quên lãng, một số phụ nữ Việt Nam ngày nay muốn thử nghiệm thứ “văn chương gợi tình,” đi vào vùng xám nguy hiểm giữa những trang khiêu dâm “một đô la” của Anais Nin và nghệ thuật trữ tình của bà? Chẳng có chuyện gì long trời lở đất ở đây cả. Các nhà văn của thể loại văn chương gợi tình đã làm việc này từ lâu rồi. Các nhà văn với chất liệu khiêu dâm cũng đã làm việc này từ thời Victoria, tạo ra thị trường tiêu thụ “ngầm” sinh lợi cho riêng họ. Có phải đây là cuộc “tự giải phóng” khỏi những giá trị truyền thống hàng ngàn năm, và sự khải ngộ kiểu Freud về cái tôi, cái ngã, hoặc một chương trình hành động chính trị xã hội nào khác, hay chỉ là sự tự ban thưởng cho những mục đích tiêu khiển đơn thuần nhưng đầy tự kỷ?



Chính vì lí do này, một cố gắng hiểu và mổ xẻ cái lí do tồn tại (raison d’être) của những sáng tác về tình dục và gợi dục từ tầm nhìn của một phụ nữ ngày hôm nay, mà tôi bắt đầu khai triển “Ló Rạng Bình Minh” như một thử nghiệm văn học của chính tôi với một thể điệu khác, mà tôi gọi là “văn chương gợi tình chính trị - xã hội”, để bác lại tính vô nghĩa của cái mà tôi gọi trên đây là “Hiện tượng”. Tôi đơn giản muốn cố gắng làm cho bạn đọc Việt Nam (và cả tôi) hiểu rõ cái trách nhiệm tiềm ẩn trong văn chương nghệ thuật, để chúng ta cùng nêu lên câu hỏi sau đây: một trách nhiệm lớn lao và cao đẹp như thế có thể sẽ được đảm nhận và thực hiện như thế nào bởi những đường bút có chủ đích, hay bừa ẩu, của một cây bút nữ Việt Nam, ngày hôm nay và ngày mai?



Đoạn mở đầu của truyện ngắn THE CRACK OF DAWN (LÓ RẠNG BÌNH MINH) (viết hoa) được đưa vào dưới đây gọi là “Lời Ngỏ.” Quan điểm biện hộ chính trị xã hội vẫn còn tiềm ẩn chưa được bộc lộ rõ trong đọan trích dưới đây. Câu “crack of dawn” (“ló rạng bình minh,” không viết hoa) cũng báo hiệu điều mà tôi nhận thức như là nhu cầu của văn chương nữ quyền Việt Nam thế kỉ 21 – nếu phụ nữ Việt Nam định viết văn chương gợi tình để lay động cộng đồng và xã hội trong nước Việt Nam cộng sản hoặc trong cộng đồng Việt Nam lưu vong ở Mỹ, thì chúng ta hãy đến với một thể loại mới tôi tạm gọi là “văn chương gợi tình chính trị xã hội” sao cho thích hợp với xã hội và văn hóa của chúng ta, từ cả hai phía của Thái Bình Dương. Nếu có nhu cầu về một cuộc cách mạng chính trị xã hội trong diễn biến hòa bình, hy vọng thể loại này sẽ tạo ra rồi nâng cao ý thức và bản sắc cho người phụ nữ Việt Nam mới, bất chấp những chia rẽ về địa lí, chính trị hay xã hội. Bất kể cái khung khổ chính trị xã hội ấy là gì, thể loại ấy sẽ được định hình và biểu hiện bởi các nhà văn nữ mới, trên cả hai phía của đại dương, ở Việt Nam và ở Mỹ (và các nước thứ ba khác). Thật ra, khung khổ này nên chi phối văn học nữ nói chung, và không chỉ hạn chế ở các nhà văn nữ Việt Nam. Tôi chỉ dùng trường hợp Việt Nam như một văn cảnh.



Và đó là lí do tôi tạo ra “crack of dawn/ ló rạng bình minh” một câu chung chung cũng như cái tựa đề của sáng tác hư cấu thử nghiệm của tôi, có lẽ có thể đưa vào hợp tuyển như “văn chương gợi tình của một phụ nữ gốc Việt” (Trước đây tôi chưa bao giờ viết văn chương gợi tình, nhưng bây giờ nếu tôi sẽ viết một truyện “gợi tình”, tôi thích viết nó với một chủ trương chứ không phải chỉ để tiêu khiển hay mua vui như Anais Nin ngày trước). Câu "crack of dawn/ló rạng bình minh" ấy mang ý nghĩa của tia nắng đầu tiên đón chào một ngày mới sau một đêm dài đen tối.





Nhưng “Dawn” cũng là chữ dịch tiếng Anh tên nhân vật nữ Việt Nam của tôi. Truyện ngắn này là lời độc thoại của bà.


---


Dưới đây là đoạn mở đầu của bản thào thiên truyện ngắn rất ngắn của tôi, “Ló Rạng Bình Minh” (The Crack of Dawn) có ý định làm một thử nghiệm vu vơ, với thể loại “văn chương gợi tình chính trị - xã hội”



LỜI NGỎ





THE CRACK OF DAWN -- LÓ RẠNG BÌNH MINH



Năm 1975, có một thiếu phụ Việt Nam ở Mỹ đổi tên từ Bình Minh thành Dawn khi bà được nhập tịch trở thành công dân Mỹ. Dawn là dịch nguyên văn tên tiếng Việt của bà: Bình Minh. Bây giờ là năm 2019 và Dawn năm nay đã 70 tuổi, tìm đến tôi nhờ giúp đỡ. Bà không có con, và cưỡng lại quyết định của anh chị em đưa bà vào nhà dưỡng lão. Tôi là luật sư của bà và bà đưa tôi xem cuốn nhật kí của bà. Trên trang đầu của cuốn nhật kí, tôi đọc thấy những dòng sau đây:



“Mỗi buổi sáng hằng ngày trong thường lệ của cuộc sống chung, tôi nhận ra rằng bản giao hưởng của tôi luôn luôn dở dang. Và cũng chính vào buổi sáng như thường lệ mà chồng tôi dạy tôi cách nhận ra ông ấy. Nghệ thuật tách mở làm vỡ tan cái cơ cấu tự bảo vệ của tôi, cho tôi được gặp ông, thật sự gặp ông, người đàn ông mà tôi không hề biết. Và sau đó ông kêu tên tôi. Dawn. Dawn. Dawn. Bình Minh. Bình Minh. Bình Minh.



Tôi tên Dawn, dịch chữ Bình Minh. Tôi được tách mở ra.





“Vết Nứt Của Bình Minh.”



Nhân vật Dawn của tôi là ai, chồng của Dawn là ai, và chuyện gì xảy đến cho họ?



Tôi dùng đoạn trích trên đây để kết thúc tiểu luận này





WND COPYRIGHTED 2008, 2019




Đôi nét về tác giả: là người viết tiểu luận và là tác giả của bộ ba tiểu thuyết về trải nghiệm của người Việt Nam tái định cư ở Mỹ, do Amazon Encore-Lake Union xuất bản (International Book Award, multi-cultural fiction, 2012)




Về sáng tác tiểu thuyết, viết bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Về nghề nghiệp chính, là luật sư, cựu thẩm phán, và cựu giáo sư luật. Một trong những tác phẩm luận đề: "Phụ nữ Vịệt Nam: chiến sĩ và thi sĩ," được xuất bản bởi Đại học Luật Washington, Hoa Kỳ, năm 1999.









[1] Nhà văn khiêu dâm người Mỹ gốc Cu Ba (1903-1977) (chú thích cuả dịch giả và Văn Việt)


[2] Một giai đọan trong phiên tòa, trong đó bên có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ sẽ lên tiếng trình bày chứng cứ của mình. (chú thích cuả dịch giả và Văn Việt).


[3] Những nữ anh hùng dựng nước thời xưa của Việt Nam: Hai Bà Trưng, người đã lãnh đạo cuộc cách mạng chống Nhà Hán (40-43 CN.) và Bà Triệu người đã đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống Nhà Ngô, (225-248 CN.), để giành lại độc lập cho Việt Nam như một quốc gia có chủ quyền.


[4] Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ của Việt Nam thế kỉ 18, nổi tiếng toàn quốc với lối thơ trào phúng và biểu tượng hai mặt (double entendre), được các nhà phê bình Việt Nam công nhận là nữ nghệ sĩ sáng tạo và nhà cổ võ cho nữ quyền đầu tiên của dân tộc.


[5] Phương ngữ Huế là tiếng nói của người dân Huế – cố đô của Việt Nam - và vùng phụ cận.

Wednesday, November 6, 2019

IMAGE OF Từ Hải IN NG.UYEN NICOLE DUONG'S FICTION

Featured bilingual creative writings by author Uyen (Wendy) Nicole Duong

CHÍN CHỮ CỦA NÀNG


NOTE FROM THE AUTHOR: In its original English version, Her Nine Words is a chapter in the novel Mimi and Her Mirror (AmazonEncore June 2011). The protagonist recalled her earlier days in America after the fall of Saigon in 1975. During those earlier days of the Vietnamese settlement experience, she met her counterpart, a disillusioned Vietnamese guru whom she called The Crazy Man. The following excerpt described the protagonist’s performance as Portia from Shakespeare’s The Merchant of Venice, after she had learned of what had happened to her Crazy Man (Chàng Khùng in the Vietnamese version). COPYRIGHTED 2007 by Uyen Nicole Duong/Duong Nhu Nguyen
The Vietnamese version was the translation by the author's father, Dr. Dzuong Duc Nhu.

______
...

HER NINE WORDS -- CHÍN CHỮ CỦA NÀNG
Dương Như Nguyện
Dịch Giả:  Dr. Dương Đức Nhự

(Trích từ truyện ngắn đầu trong tuyển tập truyện ngắn cùng tên, Chín Chữ của Nàng (Văn Mới: 2005). Truyện cũng là một chương trong tiểu thuyết tiếng Anh Mimi and Her Mirror của Dương Như Nguyện (AmazonEncore, 06.2011), kể  như truyện tiếp nối (sequel) của Daughters of the River Huong (Những Người Con Gái Cuả Sông Hương).(Bản dịch này dùng cách đánh vần mới)

-----

....
Mùa thu 1976, Hội Sinh Viên Việt Nam tại Southern Illinois State University (SISU) tức Đại Học Nam Illinois có chừng hai chục hội viên. Đa số học ngành kĩ sư hoặc kế toán, và có học bổng từ hồi mới sang Mĩ trước 75. Sau khi Sài Gòn sụp đổ, phải cần cả một năm trời để họ điều chỉnh tình trạng di trú, thay đổi chương trình tài trợ sinh viên, ổn định tinh thần và tiếp tục đời sống.

Lúc đầu không ai để ý, nhưng dần dần trong Hội ai cũng biết chuyện Chàng Khùng. Như một đạo sĩ kì dị, hắn thiết lập bản doanh tại hành lang tòa nhà Krost Hall, nằm giữa Trung Tâm Sinh Viên và Tòa Nhà Hành Chánh Woody. Hắn ngồi trên một tấm chăn, nhiều khi hắn đứng, khua chân múa tay và lẩm bẩm một mình. Quanh hắn là những truyền đơn và quảng cáo về tự do, dân chủ trong khối Thế Giới Thứ Ba.
Trong nhóm sinh viên Việt Nam, mọi người đồn đại về cuộc đời hắn. Trước kia, hắn từng là một sinh viên tiến sĩ tại phân khoa Khoa Học Chính Trị. Hắn xuất thân từ một gia đình cách mạng. Cha hắn là một anh hùng trong kháng chiến chống Pháp.Ông chết trận tại Điện Biên Phủ. Người anh cả nuôi hắn. Ông này là Chánh Sở An Ninh phủ Tổng Thống của chánh phủ Sài Gòn. Một hôm, ông đưa người em ra máy bay, và kế đó, người thanh niên này đã có mặt tại SISU, nơi có Trung Tâm Việt Học. Ai cũng biết tham vọng của Chàng Khùng là về nước tranh cử chức vị. Hắn không dè dặt, giấu diếm giấc mơ này. Mục đích của hắn là trở thành Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa.

Nhưng đó là khi còn chưa mất nước, còn có một nước để làm Tổng Thống.

Mùa thu 1975, anh hắn ở trong trại tù cải tạo, và chàng Tổng Thống-sẽ-thành của một nước cộng hòa ở Đông nam Á thấy mình trở thành Phó Giám Đốc nhà hàng ăn Steak & Ale trên con đường từ phi trường Mirian, Illinois về Đại Học Nam Illinois.
Mùa thu 1977, hắn từ bỏ luận án tiến sĩ và việc làm ở Steak & Ale. Tòa nhà Krost Hall, nơi có phân khoa Khoa Học Chính Trị, trở thành trú sở thường xuyên của hắn. Hắn quyên tiền đóng góp để tái thiết một nước Việt Nam mới, và loan báo cho quần chúng sinh viên biết rằng cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam chưa chấm dứt.
Lần đầu tiên tôi gặp hắn ở Krost Hall, hắn đưa cho tôi một tờ truyền đơn. Tờ truyền đơn đặt câu hỏi: “Cuộc chiến ở Việt Nam thuộc về Mĩ hay thuộc về giai cấp trung lưu của Nam Việt Nam?”
Tôi hỏi:

“Ai là giai cấp trung lưu của Nam Việt Nam?”
Hắn nhìn tôi, rõ ràng là hắn khám phá ra những đặc điểm di truyền trên mặt tôi. Hắn trả lời giản dị, có lẽ quá giản dị:

“Cô và tôi.”
Sinh viên tò mò đứng thành một vòng tròn quanh hắn. Cứ như thế kéo dài mấy tháng đầu. Rồi người ta bỏ mặc hắn. Chẳng bao lâu, đa số sinh viên ném truyền đơn của hắn vào thùng rác ngay trước mặt hắn. Cứ như thế được một năm. Và hắn trở thành một cảnh thông thường trước lối vào Krost Hall.
Cứ mỗi lần đi cạnh lề tòa nhà Krost Hall là tôi thấy hắn. Chúng tôi nhìn nhau. Một hôm, tôi vứt tờ giấy bạc một đô-la vào cái hộp của hắn, hắn chăm chú nhìn tôi. Với chiều cao 5 bộ 11, hắn cao hơn hầu hết những người Việt Nam khác cùng thế hệ. Hắn cũng đen hơn và vạm vỡ hơn. Cặp mắt sáng, làn da nâu ánh, hai bàn tay to, xương xẩu, rắn chắc, với những ngón tay dài, vuông đầu. Tóc hắn cắt rất ngắn. Cằm vuông, đầy đặn, đôi môi mím chặt, cái mũi nhọn khiến tôi nhớ đến chàng tài tử Mĩ đen Sidney Poitier.  Một năm trước khi Sài Gòn mất, tôi đã coi một phim tại Hội Việt Mĩ về một ông khách da đen tới dùng cơm nhà cô bạn gái. Từ đó, tôi không quên bộ mặt của người tài tử da đen này.
Chàng Khùng là thể hiện Việt Nam của Sidney Poitier. Thắm thiết, mạnh mẽ, và công chính. Hắn có thể trở thành một nhà cách mạng. Một nhà lãnh tụ.
. . . .
“Tôi phải gọi cô là gì?” Hắn hỏi.
“Tôi chỉ là Mi. Mi.”
“Bây giờ, hãy nói chuyện phát-âm-học. Trong tiếng Việt và tiếng quan thoại, ‘Mĩ’ nghĩa là đẹp. ‘Mĩ’ cũng có nghĩa là nước Mĩ. Nước Mĩ đẹp. Với một thanh điệu khác, Mĩ khiến tôi nhớ đến Mị nương, tên của nàng công chúa con vua Hùng.”
Tôi gật đầu. Tôi biết “Mi” nghĩa là gì.
“Hay cô có thể là Michelle. Michelle ma belle. Ce sont les mots qui vont très bien ensemble. Très bien ensemble.” Hắn nói tiếp.
Thì ra Chàng Khùng là một người mê nhạc Beattles. Giống như mọi người khác.
Tôi bỏ hắn quay đi, vừa đi vừa cảm thấy khổ sở. Không còn nước Việt Nam Cộng Hòa nữa. Nó đã bị thay bằng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa. Ở đó, không có người Việt Nam nào bỏ phiếu cho Chàng Khùng, cho dù có một cuộc tổng tuyển cử xẩy ra, nhất là một chàng chỉ đứng phát truyền đơn ở Nam Illinois.
*́́
Những tờ giấy bạc một đô-la của tôi tiếp tục rơi vào trong cái hộp của Chàng Khùng. Một hôm, hắn tuyên bố:
“Cô có muốn thành một Đệ Nhất Phu Nhân không?”
“Anh nói cái gì?” Tôi giật mình hỏi.

Hắn đã nói ra giấc mơ của tôi. Sinh ra trong một xã hội Khổng Mạnh, tôi không có hi vọng gì trở thành một nữ Tổng Thống. Cho nên tôi đành chịu làm Đệ Nhất Phu Nhân vậy. Tôi không bao giờ nói điều này ra với bất cứ một ai. Giấc mơ ấy, dù quái dị, đã chết đi khi Sài Gòn sụp đổ.
“Tôi muốn lấy cô làm vợ!” Hắn nói.
“Anh thật là khùng.”
“Đó chính là điều người ta nói về tất cả những vĩ nhân không chịu làm người tầm thường. Tôi nói thực đấy, tôi muốn cưới cô.”
“Tại sao?
“Cô thực sự là một Đệ Nhất Phu Nhân. Một thứ Đệ Nhất Phu Nhân. Như tôi vậy.”
“Tôi thành hôn bây giờ thì còn quá trẻ.”
“Người ta không bao giờ quá trẻ để biết yêu và để được yêu.”
Nói đến tình yêu làm tôi càng thêm buồn, biết rằng cha mẹ tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một thanh niên không có việc làm, một gã vô nghệ. Tôi nhức nhối bước đi, ý thức rằng hắn đang nhìn theo.
Từ bữa đó trở đi, mỗi lần tôi đi qua Krost Hall, hắn lại nháy mắt với tôi:

“À, chào Đệ Nhất Phu Nhân của tôi!”
*
Thời tiết trở lạnh hơn, khóa học tiếp tục, và mùa thu đang tới gần. Lá đang đổi màu.
Chàng Khùng không đứng nữa. Hắn ngồi xuống nền đá, quấn mình trong tấm chăn bẩn. Một bữa kia, hắn lại bảo tôi:
“Tôi muốn cưới cô làm vợ. Cô là người đàn bà đẹp của tôi.”
“Tại sao anh lại làm như vậy?” Tôi sắp sửa khóc.
“Làm cái gì hả cô?”
Tôi trỏ vào những tờ truyền đơn. “Chúng chẳng có ý nghĩa gì.”
“Cô đừng bao giờ nói với tôi như thế.”
“Xin lỗi. Tôi chưa đầy hai mươi tuổi. Tôi không biết gì nhiều.”
Tôi nhìn gần hơn vào mặt hắn. Rõ ràng đó là biểu hiện Việt Nam của nét mặt Sidney Poitier. Cặp mắt nẩy lửa, mép môi mím chặt tỏ ra là một người thẳng thắn, bướng bỉnh, chịu chấp nhận số phận, và nguồn cội, với niềm kiêu hãnh tuyệt đối.
“Tại sao tôi lại phải lấy anh?” Tôi thay đổi câu chuyện.
“Vì tôi biết cô có một cái bụng đẹp và một cái rốn gợi cảm.”
Tôi đỏ mặt. Dĩ nhiên, là một thiếu nữ đoan chính, khiêm cung, tôi như bị điện giật, và cảm thấy bị xúc phạm. Từ khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đã trở nên dè dặt và lặng lẽ hơn. Nam giới lấn tới luôn là một đe dọa đối với tôi.
“Da cô mịn láng, với một hàng lông tơ nhỏ chạy từ rốn tới bụng dưới…” Cặp mắt hắn nhắm lại. Hắn đang mơ màng trong thế giới riêng của hắn, và sẽ chẳng để ý nhiều tới phản ứng của tôi.
“Anh thật khùng.” Tôi thở dài.
“Cuộc đời còn có gì đáng sống hơn là theo đuổi một chính nghĩa và rúc đầu vào bụng người đàn bà mình yêu mà hôn cái rốn của nàng!”
“Anh không yêu tôi. Anh chỉ vì anh thôi.” Tôi bỏ chạy, vừa chạy vừa kêu lớn.
“Anh thô lỗ và vô trách nhiệm. Và anh đang đùa giỡn với tôi.”

Tôi thấy giận hắn, và thấy bị đe dọa bởi những nhận xét đầy cảm giác ̣“sensual” của hắn. Nhưng một cảm giác mơn man cứ kéo dài trên vùng bụng dưới của tôi mỗi lần tôi nhớ tới những gì hắn nói. Cảm giác ấy làm tôi bận tâm. Tôi quyết định không bao giờ cho hắn tiền ăn trưa của tôi nữa.
*́́**
Mùa thu tới trong vẻ đẹp bi thương, với lá vàng bay trong không khí lạnh. Khi đi bộ trong khuôn viên đại học, tôi quấn mái tóc dài quanh cổ. Bạn cùng lớp gọi tôi là “cô gái đông phương gầy ốm tóc quấn quanh cổ.”
Đã nhiều tuần tôi không đi qua Krost Hall. Vì tôi bận học. Rồi một bữa kia tôi phải đi qua khu rừng giữa Krost Hall và thư viện Morris để tới Tòa Nhà Truyền Thông và Nghệ Thuật. Để tập kịch. Ở phía bên kia khu rừng.
Trên những bậc thềm của Krost Hall, tôi không thấy Chàng Khùng nữa. Hắn đã đi rồi.
Không còn tấm chăn. Không còn những cuộc nói chuyện ngu xuẩn. Không còn truyền đơn hay quảng cáo. Không ai nhớ hắn cả. Cũng không ai để ý là hắn đã đi rồi. Đã có lần tôi nghĩ là người ta sẽ đặt hắn vĩnh viễn trên vỉa hè Krost Hall, như thế hắn sẽ thành một cơ chế. Như là cơ chế Krost Hall.
Tôi đứng ngay chỗ hắn vẫn đứng. Tôi ngơ ngác và bất ngờ cảm thấy mất mát. Tôi đi qua tấm cửa kính đúp. Vào Krost Hall. Ở bên trong, tôi lượm một tờ báo của trường đại học. Ngay trang đầu có một bài về Chàng Khùng. Hắn đã bị những nghi can vô danh đả thương. Cảnh sát đang điều tra.
Bài báo nói rằng hắn ta rất khỏe, và đã chiến đấu can đảm như một chiến sĩ, tuy nhiên thái độ anh hùng đó đã dẫn hắn tới bệnh viện, khu săn sóc khẩn cấp.
Bài báo nêu lên mọi giả thuyết. Đạo tặc ư? Không chắc, vì hắn không có gì trên người, và hộp tiền của hắn, đầy tiền cắc và những tờ giấy bạc một đô-la, vẫn nguyên vẹn. Thù hằn ư? Nỗi cay đắng của những cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam? Hay là những cha mẹ Mĩ mất con ở Việt-Nam đã trả thù những người tị nạn mới tới? Hay là đoàn viên hội “da-trắng-là-nhất” vẫn hiện diện không định danh được ở miền nông thôn Nam Illinois? Hay chỉ là hận thù cá nhân?
Dù sao chăng nữa, biến cố này đã xẩy ra trong một đại học thanh bình, tự do, bên ngoài một tòa trú sở của những phân khoa Lịch Sử, Khoa Học Chính Trị, Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Một biến cố như thế chưa bao giờ xẩy ra tại Nam Illinois và SISU thường vẫn ngủ yên.

Những kẻ tấn công có ý định giết chết hắn.
Bài báo tiếp tục nói về luận án dở dang của hắn. Hắn đã viết về cuộc chiến đấu chống thực dân và cộng sản tại Việt Nam và hắn xây dựng một mô hình tái thiết vùng thôn quê. Khai thác dầu hỏa dọc theo bờ biển. Xuất cảng gạo. Tiến đến hoàn toàn chấm dứt viện trợ kinh tế và quân sự của Mĩ, Nga, Tàu.
Hắn nói về việc xây dựng một giai cấp trung lưu mạnh, về tự do ngôn luận phải in sâu vào tâm trí người dân để trở nên một thói quen, một thái độ, một nếp sống. Đó là mô hình Mĩ muốn áp dụng vào Đông Nam Á đang phát triển?
Luận án này là công trình của một con người lí tưởng, bài báo kết luận.
***
Tôi rời khỏi Krost Hall và tiến về phía Tòa Nhà Truyền Thông. Tôi phải đi qua rừng để dự buổi tập kịch.
Mùa thu hiện ra trước mặt tôi. Một tấm nệm lá vàng, đỏ, và xanh vàng. Như một bức tranh tù túng, trong gió heo may buổi sớm, khu rừng đông lại ở phía trước.
Những hàng cây đứng im lặng, và vô vàn lá đang chờ đợi trong sự im lặng tuyệt đối đó trong khi tôi giẫm bước lên chúng. Những tiếng động rất nhỏ vang ra khi làn gió thổi vào lá. Những tiếng động này trở thành ròn rã, vỡ gãy khi tôi giẫm giày lên trên đất ẩm.
“Lá đang khóc,” tôi thầm nghĩ, vừa nghĩ vừa nín thở.
Giữa những lá vỡ, tôi bắt đầu trông thấy cặp mắt đen, nảy lửa của chàng sinh viên cao học vỡ mộng đã quyết định bỏ dở những năm dài theo đuổi sự học và đã gọi tôi là “Đệ Nhất Phu Nhân” của chàng.
Tôi muốn đứng giữa rừng, chôn chân vào xác lá vỡ. Lạc hướng và bối rối. Đầu óc tôi tràn ngập những tư tưởng. Tôi đã tìm được tự do từ một cuộc chiến tranh, thoát khỏi một chế độ. Tôi chỉ tìm được một nhà tù mới trong sức nặng của văn hóa, bóng dáng cuộc đời tôi đã bỏ lại phía sau tiếp tục ám ảnh tôi về ban đêm. Tôi mơ đang trở về nhà để khăn gói sửa soạn cho một cuộc ra đi đúng nghĩa. Có những cơ hội chào từ biệt những người tôi yêu, họ chúc tôi may mắn và hành trình tốt đẹp, thay vì một cuộc chạy trốn trong những chiếc máy bay chở hàng hay trong những ghe thuyền đánh cá.
Tôi mong muốn được tới những vùng đất rất xa, được tặng quà chào mừng, không có những người đứng sau những biểu ngữ “Duy có Tổng Thống Ford là muốn họ mà thôi.”
Tôi đã làm một cuộc hành trình qua đại dương và được gặp những chiếc lá đang đổi màu báo hiệu sự thay đổi mùa và bản chất vô thường của chính đời sống. Một ngày kia, khi đời sống và cái chết hòa làm một, chính tôi sẽ trở về với đất, hòa nhập với những chiếc lá trong vô tận ở dưới mặt đất, và lúc đó tôi sẽ đổi dạng biến thành không khí mùa thu. Duy lúc đó tôi mới đạt tới bờ bến tuyệt đối an toàn. Tuyệt đối tự do. Và vô tận. Một người tị nạn đến được nơi nương náu cuối cùng để có bình an.
Cho tới giờ phút cuối cùng ấy, thì tôi phải vượt khu rừng để đến với sân khấu.
Các sinh viên kịch nghệ đang tập kịch và dự tuyển cho vở Người Lái Buôn Thành Venice. Tôi là một sinh viên tị nạn mới từ Việt Nam tới và phải đóng vai của mình.
Tôi phải đọc phần của một nữ luật sư nhờ tài hùng biện mà đã cứu được người nàng yêu. Một người bạn cùng lớp cứ hỏi: “Bạn có chắc đóng kịch Shakespeare được không?”

*

Tôi vẫn lắng nghe tiếng khóc của những chiếc lá đang chết. Có lúc chúng thổn thức.
Chẳng khác gì sự rung động của trái tim tôi.
Một cơn gió mạnh thổi qua, và tất cả muôn vàn lá chợt thức dậy lần cuối cùng. Trước khi chết. Tiếng khóc của chúng cùng vang lên dồn dập mỗi lúc một nhanh hơn choáng đầy không khí.
Tôi níu chặt lấy vai, rung động vì tiếng nhạc của thiên nhiên. Nhạc cầu siêu cho những chiếc lá đang chết.

Đứng giữa rừng, tôi bắt đầu khóc. Vô cớ. Không có một lý do nào hết.

Những xúc cảm bùng nổ. Không cần thiết. Không can cớ. Niềm thất vọng của tôi càng lớn khi tôi không hiểu nổi những giọt nước mắt của chính tôi.

Tôi đến sân khấu Phân Khoa Kịch Nghệ Đại Học Nam Illinois như thế đó. Để đọc những lời của một vai trò khác hẳn với tôi, trong một ngôn ngữ mà một năm trước đó ở quê nhà được coi là một phần của chương trình ngoại ngữ. Tôi phải đóng vai đó trước một cử tọa còn nghi ngờ khả năng của tôi.
***
Tôi không bao giờ gặp lại Chàng Khùng nữa. Tờ báo đại học cho biết là sau khi ra khỏi khu săn sóc đặc biệt của bệnh viện là hắn biến mất. Rõ ràng hắn đã xuất viện trước khi những vết thương hoàn toàn bình phục. Hoặc giả có người bắt cóc hắn.
Đối với những sinh viên Việt Nam tại SISU, hắn trở thành một huyền thoại.
Tôi không bao giờ biết hắn thực sự là ai. Tôi là người Việt Nam và tin tưởng vào sự may mắn của con số chín. Tất cả những việc quan trọng trong đời sống có thể được tóm tắt trong chín chữ.
Từ nhiều ngày, nhiều năm nay, để tưởng nhớ một người mà tôi đã tin tưởng, tôi vẫn ước ao đã trao được cho chàng chín chữ của tôi. Một ngày kia, tôi đã viết chín chữ đó xuống trong nhật kí của tôi:
Thân gửi Ông Tổng Thống nước Cộng Hòa mới,
I think I have fallen in love with you.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Em nghĩ rằng hình như em trót yêu anh
1 2 3 4 5 6 7 8 9
***
POSTSCRIPT (LỜI CUẢ NGƯỜI PHỤ NỬ KỂ CHUYỆN, NHIỀU THẬP NIÊN SAU)
Chính tôi cũng đã già đi. Hôm nay tôi thức dậy, nhìn vào trong gương và thấy một người đàn bà trong đó.

Đã qua rồi thời sinh viên năm thứ nhất tại SISU.
Từ ngày gặp Chàng Khùng lần cuối cùng, tôi không bao giờ được gặp một người nào khác mà tôi muốn trao tặng chín chữ của tôi. Một người nào có những giấc mơ to lớn hơn đời sống và có can đảm theo đuổi những giấc mơ ấy, không bao giờ e thẹn, ngại ngùng nói những ước mơ ấy ra trong một thế giới không tình cảm.
Tôi cất giữ chín chữ ấy trong một cái bình ảo thuật và đậy nắp lại, cùng với thời thơ ấu mới lớn ở Việt Nam. Đồng thời, tôi tiếp tục chờ đợi, hi vọng sẽ gặp một người nào sẽ gọi tôi là Đệ Nhất Phu Nhân. Tôi không bao giờ gặp cả. Tôi học xong đại học. Rồi vào trường Luật. Trở thành luật sư. Làm việc liên tục trong một số những hãng luật. Thời gian chầm chậm trôi qua. Một hôm, nhìn vào gương tôi nhận ra là tuổi hai mươi đã qua rồi. Rồi tôi về Houston, Texas, và có lẽ sẽ không bao giờ trở lại miền khí hậu lạnh để có thể thấy bốn mùa thay đổi và những lá vàng rơi.
Tôi nhìn vào cặp mắt người đàn bà ở trong gương trước mặt tôi và nói với nàng:
“Ừ, tôi biết cô. Tôi biết tất cả về cô, và tôi vẫn thích cô.”
Tôi muốn vô cùng là tôi có thể nói như thế với một người khác, với tất cả sự trìu mến ràng buộc những trái tim nhạy cảm. Những ràng buộc giữa những nghệ sĩ, những người mơ mộng, những bạn bè tốt nhất, cho nen họ hiện hữu vượt ra ngoài cõi đời này. Sự thông cảm giữa những người trưởng thành, sâu sắc, mang niềm hoài cảm nhớ tiếc những giấc mơ đã chết.
Tôi muốn tôi có thể ôm hình bóng của chính tôi, vì tôi nhìn thấy trong mắt người đàn bà đứng trước mặt tôi hình dáng cái bình ảo thuật với chín chữ trĩu nặng những giấc mơ của nàng.
Tôi muốn vô cùng là tôi có thể làm cho điều đó xẩy ra với nàng. Công cuộc đi tìm tình yêu và lí tưởng. Trong một thế giới bị xâm chiếm bởi những tiêu chuẩn vật chất, và chủ nghĩa tiêu thụ, điển hình là sự đòi hỏi vô nhân của sự thi hành luật pháp, thì người đàn bà-mà-tôi-đã-trở-thành sẽ tiếp tục kiếm cách trao đi, một cách giản dị và trọn vẹn, chuỗi chín chữ bằng tiếng Anh đơn giản.  Hay bằng bất cứ thứ tiếng nào trên thế giới, bao gồm cả tiếng mẹ của nàng.
Chín chữ của tôi.
Cô S.
DNN C 1998

EXCERPT FROM THE ORIGINAL IN ENGLISH, 
FROM MIMI AND HER MIRROR:  

Somehow I knew in my heart I would never see my Crazy Man again. I had never had a chance to tell him about my pain. Gone was the opportunity to share. I was to bear my pain alone, from now on.
I left Krost Hall and headed for the Communications Building. I had to cross the forest to attend my drama practice.
Autumn appeared before me on the mattress of gold, reddish, and mustard green leaves covering the earth. One morning breeze awakened them. Tiny evasive sounds emanated as the blowing wind touched the leaves. Those tiny whispers turned into the crispy sound of breakage as my shoes pressed onto the damp ground, crushing the awakened leaves. Then came silence. Like a stagnant painting, the forest after its morning breeze froze into serenity and rows of trees stood silently, countless leaves awaiting breathlessly in that utmost silence. They throbbed and pained as I raised my heels and stepped, as though they had souls.
The leaves are crying!” I thought to myself.
They are indeed crying,” I repeated. I could hear their cries. Distinctively. Those small cries together filled up my ears into a requiem for imminent death.
I began to see, among broken leaves, the dark, fiery eyes of a disillusioned Vietnamese graduate student who had decided to throw away his long years of education, and who had called me his “First Lady.”
I stood in the heart of the woods, burying my feet in the corpses of broken leaves. My eyes blurred and my temples pulsed. For a moment, I forgot where I was. Images of roaring cargo airplanes and people walking through barricades of MPs wearing black bands on their arms and shiny pistols around their hips rushed through my mind, and I had to sit down on the ground to gather myself. I sat among crying leaves and I had no Shakespeare lines prepared for the forthcoming practice. Instead I composed my own monologue. I want to turn the clock back so I can redo a departure. I want to pack properly. I want good luck and bon voyage and welcome gifts. Where I am going, I will see the changing seasons like rows of silent evergreens and all that pure sparkling snow whitening the earth, and I will jump up and down and roll myself around on that pure snow, celebrating the season and knowing the great joy of being alive. But I am not rolling and, instead, I have made timid footsteps on broken leaves. On the Boeing airplane that crossed the Pacific from Guam to the U.S, I came across a Newsweek cover showing people standing behind banners, “Only Ford wants them.” “Why this banner? Are we not wanted?” I had asked that day and my father yanked the magazine from me. Too late. I had already seen the angry rejection of the host country. In confusion I slept through the flight and when I woke up, I had already crossed the ocean. When the ocean no longer spread its green underneath the grey wings of that impersonal plane, I thought I was still walking in a dream, an endless dream that sleepwalker dreams: a girl with no past born to be sixteen, a young refugee with no luggage but her nightmare and solitude. Yet I am supposed to celebrate freedom and a new life. But separation is the fate of the exiled, and for a traveller in exile, every departure is but an old, déjà vu beginning. So through this life I will repeat my departures, meeting forests of leaves that change colors, telling me of the season and the transient nature of life. I am whispering to the dying leaves about my end –when life and death become one, and I, too, will return to the earth, joining those leaves and disappearing into the ground. Perhaps then I will turn into the cool autumn air, and there will be no breakage, no separation, no past, no present, no running, no search for a new place, no repeated departures, because I have become the air, inseparable from its sky, and no one, nothing can cut the air in half and break life in two to create a new beginning that multiplies. The air I have become will permeate everywhere. But as young as I am, why am I thinking about a time when I will change into the autumn air? It must be because of what happened to me during the exodus — the pain of secrets that I alone have to bear, and there is no one to tell it to — the unwanted exchange for the freedom I am supposed to cherish. So instinctively I know that only in the transformation of flesh and bone into air will I attain complete safe harbor. Change me into the air and I will attain absolute freedom and the ultimate sanctuary of peace. But once a refugee, always a refugee. I’ll be running forever, until I reach the farthest edge of the planet, until there is no more earth on which to run, when I will turn into the ultimate vacuum called the air. Until that final moment comes, I am to cross the forest, toward a stage. “Are you sure you can handle Shakespeare?” A classmate named Steve once asked. I didn’t know what to say but I could see the doubt in his eyes.
***
On that day in autumn of 1976 I delivered my monologue in the woods, while listeningto the cries of dying leaves. At times, I heard the leaves throbbing, pulsing, in harmony with the sobbing timber of my heart. A strong wind blew by, and all of the leaves awakened for the last time before their death. Their cries became symphonically crescendo, filling the low sky. I held on to my shoulders, shaken by nature’s requiem for those dying leaves.
Standing up from the bed of leaves, I started to cry.
And that was how I reached the stage of the Drama Department. There, I would be delivering the role of a lawyer, in front of a crowd who might be doubting my ability to handle the job.
***
The quality of mercy is not strained/ It dropped as the gentle rain from heaven upon the place beneath/ It is twice blest/ It blessed him that gives and him that takes/ Tis mightiest in the mightiest/It becomes the throned monarch better than his crown,” I said the words.
I curved my tongue and then darted it underneath the upper row of my front teeth. I gave the soft “th,” and pushed my breath through the blockage between the tongue and teeth to pronounce the breathy “th.” This sound did not exist in Vietnamese and it sounded English and I became Shakespeare’s English. I found a spot in front of me, a spot with no face, no name, and I spoke my words to it. I gave the words all the volume I could draw from the ninety five pounds and five feet two inches of me. Words poured out of my soul and when they escaped my mouth they sounded so alien. They leaped toward the spot I had chosen. There in that spot I reigned. Yet I felt so rotten inside.
For the performance, I had signed my full Vietnamese name. The drama coach could not comfortably pronounce it. It was a problem. My Vietnamese name was problem. Nobody cared how I was once so proud of the long, winding name that said something about my roots dating back to the Spirit of the River Huong who watched over me. Here, I was better off without that name on this stage. They had given me a new name. Portia. Easily slip on and off. So long as I could articulate the beautiful words, I would become Portia.
I was on stage as a woman disguised as someone else to speak the clever words and help someone she loved. Mercy. Justice. A pound of flesh. A woman more powerful and shrewder than men. An advocate. No one cared who I was. No one recognized me. No one was supposed to. I became Portia. The spot to which I spoke was no longer Hue, DaLat, Saigon of the Vietnam I knew. It became Venice with all those gondolas and plenty of olives. “That in the course of justice none of us should see salvation./ We do pray for mercy./” I was speaking outward still, yet a smaller voice spoke inside me. Salvation. The tiny voice told me. To reach salvation, one must forebear. Forgive. Forgo. And forget.
I put the sharpness of my pain into the words.
“Take then thy bond, take thou they pound of flesh./ But in cutting it if thou dost shed./ One drop of Christian blood thy lands and goods./ Are by the law of Venice confiscate unto the State of Venice…/” I thought of the next step after SISU. Did this mean no more First Lady? Just a stage?
Therefore prepare thee to cut off the flesh./ Shed thou no blood nor cut thou less nor more./But just a pound of flesh.” In the spot to which I spoke, I found the Vietnamese Sidney Poitier’s grin. Those shining white teeth. I am speaking to you. Can you hear these clever words? I am supreme and powerful and I can make things happen. I won’t succumb. Forebear. Forgive. Forego. And Forget. I was speaking forever though it felt so bad inside. I enunciated the t’s and the s’s. I was careful and perfect with all letters, vowels, and ending sounds. When the lump raised in my throat, and my tongue refused to obey, I stopped and removed my eyes from the spot. In the rows of seats in front of me and below me, they all waited, their eyes fixated, thinking I was highlighting something. My eyes back to the spot. To him and me. Mercy. Salvation. A pound of flesh.
And then it was all silence.
Until I heard a few hands clapping. And then a few more. My eyes left the spot where he was and everyone in the theater was clapping, and the roaring sound reminded me again of that fated cargo airplane that had swallowed me that day in April, 1975.
I rushed off the stage. I thought I would collapse.
But I did not collapse. Instead I stood still, dazed somewhat, and someone was approaching me. I recognized him. The curly hair. Big brown eyes. Big teeth. He smoked and called himself an actor. “Hey,” he said. The SISU students all said that. “Hey, hey, hey, Oh yeah? Cool! You guys, the dude, the gal, my pal, what do you know good? Hey hey hey…Come on, it hurts so good….Oh swell.” His name was Steve Something. Steve Whatever. I couldn’t remember. Steve Something or Steve Whatever from the drama class.
“Hey it was quite good. I was just surprised. Couldn’t believe you could do it as well as I,”he told me and his brown eyes also spoke the language of sincerity.
“So when did you first learn all this? At the beginning of the semester or last night? Quite impressive,” Steve was still speaking. He did not know when to stop. He was genuinely surprised to discover I could almost outdo him. Just almost.
They had given me a blond wig to get into the part and I had tucked my long black hair under it. It looked utterly ridiculous, and I was taking it off, but actually, no, I would not take it off! I had decided to become Portia. All I needed was a wig, plus one Big Mac a day.
“When I was a baby girl, I learned about The Merchant of Venice in Hue, Vietnam,” I answered Steve’s question. I also meant for my eyes to speak the language of sincerity. I was telling the truth. I was sharing my past with him. I travelled back to the time when my father was teaching English and American civilization to twenty-two-year-old college women at Hue University. Those young women had taken turns translating pages from The Merchant of Venice and A Farewell to Arms into Vietnamese. They hand wrote the translation onto a coffee-table hard-bound notebook. Pages beautifully bordered in flowery motifs and art emblems of the Faculty of Letters, sharp black ink on the best of grainy ivory paper. Some of the women were artists-to-be and they drew illustrations with ink and water colors and these artworks were inserted in between pages of translation. The beautiful notebook was given to my father as a gift at the end of the semester. I had seen these pages, words written in beautiful penmanship, those black and blue ink strokes reminding me of dancing swans. It was the most exquisite thing I had seen — this wonderful handwritten notebook that commemorated my father’s teaching career.
“What? You learned Shakespeare in Vietnam? You must be kidding me,” Steve was lighting a cigarette, and people were leaving the theater. “I don’t believe it,” he said. “I know about Vietnam. My brother was there in the army. People wore black pajamas and village huts were blowing up. Couldn’t have Shakespeare taught to a little girl in a place like that.”
I looked back to the spot to which I had been staring while on stage. The Crazy Man was hovering like an angel, waving at me:
Hello, my First Lady.
“How difficult is it to become a First Lady in America?” I asked Steve, and then my face felt hot. I swallowed with difficulty, my mouth all dried up, and I felt sorry I had even asked the question. The echo of The Crazy Man’s voice became louder and numbed my ears:
Hello, my First Lady.
Steve had not extinguished his cigarette, his eyes darting around the theater. Naturally, he did not see the hovering Crazy Man.
“You mean like Jackie Kennedy?” He asked. “I don’t think you can play her.
She is five feet seven. Besides, you are Oriental.”
I looked away to avoid the smoke coming from his cigarette and the reality it painted. I was Oriental, as in Oriental rugs. I was no Jackie Kennedy. I could eat ten Big Mac’s a day and I would never be five feet seven. I looked to the spot above again, but The Crazy Man was no longer there. He had flown away.
“Hey are you crying?” Steve was still smoking, and everyone else had left the theater. “Don’t feel bad, kid. So what if you can’t play Jackie. This is America. Every one is a First Lady. Every one is the President. It’s a democracy. It’s the American dream.”
***
My instinct was correct. I never saw The Crazy Man again, since only a day later, the campus newspaper reported that he died in intensive care.
He had no family in the U.S. so the Vietnamese refugees in southern Illinois pooled their resources to hold a funeral. The campus administration, several student anti-violence groups, and churches in the area also contributed. His burial invoked as much gossip as the rumors about his life. Fearful of his killers and the prospect of hate crimes, many refugee families were too afraid to attend his funeral. Some started lying about where they were from. Others hopped on a bus and immediately left for California after the funeral. After all, California is the promised land for Asians.
I did not attend the funeral, for a different reason.
On that day I skipped classes and tried to sleep while snow fell outside. For Vietnamese, white was the color of mourning. His funeral coincided with the first snowfall of the season. I stayed in bed the whole day and in between short lapses of sleep, I heard again the sounds of gunshots and airplane engines. Déjà vu. Images of falling leaves and falling snow dancing on an all-white path dashed through my head. Even the leaves had turned white.
I heard again the cargo airplane engine with its rhythmic pounding noises, and I wondered what it felt like to stop breathing and die, lying underneath the hammering of nails onto a coffin lid. I wished I could lie in silence, under beds of roses and tulips. Yet I tossed and turned in my bed, hearing pounding noises above my head as my temples pulsed. I knew The Crazy Man was gone and I lived on.
***
To the Vietnamese students at SISU, the Crazy Man became a myth.
Vietnamese believed in the luck of number nine. I believed that all important things in life should be summed up in nine words.
For the years to come in my life in America, I kept wishing I had delivered my nine words to him. Either to the man I knew, or the symbol he had become in my head. Whenever I thought of him, I still felt the ticklish sensations on my abdomen, together with the urge to cry. I thought, too, of all the ideals and dreams that had died when I crossed the ocean in 1975, revived shortly when I exchanged words with him and during my first appearance as Portia on the SISU stage.
I let myself daydream one day and thought of all the what-if’s, and I wrote down in my diary combinations of my nine words. On the page appeared the following:
Dear Mr. President of the new Republic,
I think I have fallen in love with you.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Yes, I would very much like to marry you.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Who knows perhaps we could have saved our dream.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Em nghĩ rằng hình như em trót yêu anh
1 2 3 4 5 6 7 8 9

WND Copyright 1999, 2005, 2011