Tôi không phải là một nhà giáo. Tôi là một chuyên viên kinh tài
thị trường chứng khoán. Tôi có tiền bạc sung túc hơn bố tôi, vì tôi không chọn
nghề dạy học, dù rằng thời thơ ấu ở Huế, tôi đã từng ôm mộng trở thành giáo sư
dạy dương cầm. Năm tôi sáu tuổi, bố tôi để tôi lên yên sau chiếc xe đạp của
ông, rồi ông gò người đạp xe đến trường Jeanne d’Arc, Huế. Ông phó thác tôi cho
Sơ Thanh Tâm Fred Pierre. Bà là người dạy tôi đặt ngón tay lên phím trắng dương
cầm lần đầu tiên.
Chiếc xe đạp, thân người mảnh khảnh, cặp kính cận của bố tôi, những vòng bánh
xe quay trên con đường im vắng của thành phố Huế, và phím trắng dương
cầm, tất cả trở thành những hình ảnh mờ nhạt khi tôi mạnh dạn xách cặp da đi
vào trụ sở Goldman Sachs (*) ở Nữu Ước. Từ đó, tôi quên những con đường im vắng
của Huế xưa cũ, quên phím trắng dương cầm, và quên luôn đời sống của bố
mẹ tôi, nhất là của bố tôi, một nhà giáo Việt Nam lưu vong tị nạn. Trong những
đêm Nữu Ước sáng rực ánh đèn, tôi ngồi trong văn phòng, đối diện cái máy vi
tính, thoáng nghĩ đến bố mẹ tôi. Rồi vội vã kết luận: chắc là bố mẹ tôi vẫn
bình an, sau đó tôi lại tiếp tục dán mắt vào cái máy vi tính.
Tôi không biết bố mẹ tôi sống như thế nào, nói chi đến việc hiểu
được sự mất mát của bố tôi…
...cho đến ngày tôi từ giã Goldman Sachs để về miền
Nam sống bên cạnh bố mẹ. Tôi trở về với bố mẹ vì đã mệt mỏi với nghề nghiệp của
mình. Tôi muốn đi tìm phím trắng dương cầm của thời thơ ấụ.
Và trong khi đi tìm phím trắng dương cầm cho mình, tôi bắt gặp, từ quá khứ im
lìm, những mảnh đời của bố mẹ tôi…
Suốt những năm ở Mỹ, bố tôi làm nghề viết "giáo trình" (curriculum) cho một quận học chánh ở
Texas. Viết xong curriculum, ông đem bài vào lớp thực nghiệm cho lũ trẻ con
không nói tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ, trong những ngôi trường thị tứ (urban) cho
con nhà nghèo, rồi ông phải bênh vực bài giảng của mình soạn ra, trước những
con mắt phê bình của những nhà giáo dục tiểu bang, đa số là những con người
chưa từng bước chân ra khỏi vòng đai tiểu bang Texas, nói giọng eo éo theo cái
lối miền Nam. Qua bao nhiêu kiểm điểm, phê bình, bài của bố tôi mới được in ra,
trở thành bài học căn bản cho lũ trẻ con nói hai thứ tiếng.
Có nghiã là bao năm nay bố tôi sinh sống bằng nghề dạy học. Ngày lại ngày, sáng nào bố tôi
cũng dậy từ năm giờ. Mẹ tôi dậy theo. Mẹ tôi để vào cái túi giấy dầu một mẫu bánh mì chả lụa, một trái chuối, và một lon sữa đậu nành. Đó là bữa ăn trưa của
bố tôi. Sáu giờ sáng bố tôi ra khỏi nhà, cầm theo cái túi giấy dầu, và tài liệu
dạy học nằm trong cái cặp da càng ngày càng cũ. (Tính bố tôi ưa sưu tầm, lưu
trữ, không thích vứt bỏ cái gì cả. Ông khư khư giữ tất cả những gì ông đã sắm
để rồi… tôi biết một ngày kia tất cả sẽ tan biến đi, như lần di tản 1975).
Mẹ tôi than với tôi: “Cha con chán nghề dạy học rồi. Ông chỉ
mong về hưu để sang Cali với bạn bè và học trò cũ. Về hưu rồi thì tha hồ mà tán
gẫu ở tòa báo Người Việt với Người Chàm, Thế Hệ Hai Mươi với Thế Kỷ Hai Mốt…”
Trong căn bếp hẹp, mẹ tôi sửa soạn túi giấy ăn trưa cho chồng. Tôi nghĩ, chắc
bố tôi chán nghề dạy học thật. Khi cầm cặp với túi thức ăn đi ra cửa, mặt ông
chảy dài có vẻ đau khổ, đôi mày ông cau lại.
Tôi đi làm cho Goldman Sachs có
nhiều lúc cũng chán ngán như thế. Quanh đi quẩn lại, hai mươi năm trôi qua, tôi
bàng hoàng nhận ra là mười ngón tay mình đã phụ bạc phím dương cầm. Nên tôi đã
từ bỏ tiền lương sáu con số mà “lang thang giữa đời ối a biết đâu nguồn cội” (**). Tôi đi làm, bước chân vào văn phòng với chiếc ví Chanel, với nước hoa và phấn
son thơm ngát, còn bố tôi bước chân ra cửa, trĩu nặng trên vai cái nếp sống đơn
bạc của nghề giáo. Với tôi, chiếc ví Chanel, nước hoa và son phấn trở thành
niềm an ủi, còn bố tôi lấy gì làm an ủi? Nhìn bố tôi chậm chạp trong bếp, tôi
mủi lòng. Đời tôi đã có nhiều ngậm ngùi, từ công danh cho đến tình duyên. Bây
giờ, trong tuổi già của bố mẹ tôi, hình như tôi phải cưu mang thêm nỗi ngậm
ngùi của cha mẹ.
Tôi chạy vào phòng tìm cái túi Lancôme cũ đưa cho bố tôi để ông
làm túi đựng đồ ăn trưa. Tôi nói:
“Cho nó lịch sự, bền bỉ hơn một chút, bố ạ.”
Từ hôm đó, mỗi sáng bố tôi rời nhà với chiếc cặp da cũ, thêm cái túi Lancôme
đựng đồ ăn rất “ốp a” của cô con gái thay thế cái túi giấy dầu. Ông nói với mẹ
tôi: “Cái túi Lancôme chắc chắn không bị rách vì lon sữa đậu nành, như cái túi
giấy dầu.” Mặt ông nom nghiêm trọng như thể đang nói chuyện tương lai nước Việt
Nam. Mẹ tôi thì chê cái túi Lancôme nom đàn bà quá.
Bố tôi dễ thương ở chỗ ông lập dị một cách vô tư lự. Thí dụ ông soi gương cắt
tóc lấỵ. Có lần, tóc méo một bên không giống ai, ông vẫn tỉnh bơ, tuyên bố, “Hà
tiện đồng nào hay đồng ấỵ.” Thế nhưng bố tôi lại rất hồ hởi đi mua tranh của
ông họa sĩ Đinh Cường, một người bạn cũ, về treo trong nhà làm cảnh.
Khi ông rời nhà, mang theo cái cặp và cái túi, tôi đứng nhìn theo ông, tự hỏi
trong cuộc đời nhà giáo, ông lấy gì làm an ủi, thay thế ṿị trí cái ví Chanel trong
cuộc đời Goldman Sachs của tôi?
Nếu bố tôi không thích dạy học nữa, tại sao ông vẫn gương mẫu hơn bất cứ một
công dân gương mẫu nào của Mỹ quốc nàỵ Ông phê bình chuyện tôi bỏ việc ở
Goldman Sachs: “Nó trả con nhiều tiền thế, sao lại tự dưng xin thôi ?” Ông hay
nhận định viec các em tôi và dâu rể có tật làm việc đi trễ về sớm theo ngôn ngữ
Bắc Kỳ: “Chúng mày lạ quá, tao chẳng bao giờ đi làm trễ. Mỹ nó đúng giờ giấc
lắm, đi trễ về sớm như chúng mày là bậy, bậy, bậy lắm” Em trai tôi cười trừ,
nheo mắt, “Yes, Sir.” Em gái tôi thì nhỏ to: “Bố không muốn bê bối vì bố…sợ bị cười! Hay là Bố mặc cảm Việt Nam quá trời!”
Như một cái đồng hồ báo thức, trong mười tám năm, cứ sáu giờ sáng là bố tôi rời
nhà với cặp da túi giấỵ. Bảy giờ sáng là bố tôi đã có mặt tại trường. Trừ khi
đau ốm, ông không hề nghỉ một ngàỵ. Nếu quả tình dạy học ở Mỹ là khổ thì khả
năng chịu đựng của ông thuộc hạng… siêu! Ngày nào cũng như ngày ấy, cặp da
túi giấy trong mười tám năm!
Tôi vô tâm không hiểu tại sao bố tôi đi làm với nét mặt đau khổ. Tôi cho là bố
tôi đã được voi, còn muốn đòi tiên.
Cho đến một hôm…
Không còn đeo gánh nặng của Goldmans Sachs trên vai, tôi có thì
giờ theo bố tôi đến lớp học một ngôi trường thị tứ…Bắt đầu bằng sự tò mò của
một đứa con, tôi trở thành nhân chứng một ngày trong đời của bố tôi, để bàng
hoàng nhận ra sự mất mát của thế hệ lưu vong đi trước. Bố tôi đứng, cũng phấn
trắng bảng đen, ông hò hét không lại lũ trẻ con ngỗ nghịch, đen, trắng, vàng,
Mễ có, Việt có, Tầu có.
Ông đứng cô độc, già nua, nhỏ bé trong cái lớp học tồi
tàn.
Ngày hôm ấy tôi nhận thức được sự đau khổ của một nhà giáo Viêt Nam ở Mỹ! Đây
không phải là trường Trần Quý Cáp với những người học trò Quảng Nam tình nghĩa,
tự biết cúi đầu khoanh tay, yêu thương thầy cô cho đến 30 năm sau không phai
nhạt. Đây không phải là Đại học Vạn Hạnh của một xứ sở Phật giáo mà hình ảnh từ
bi của Như Lai hòa nhập với con đường đi tìm kiến thức. Bố tôi không còn là ông
giáo mảnh khảnh mang kính cận giảng dậy văn chương Anh cho sinh viên. Từ
Merchant of Venice cho đến A Farewell to Arms. Ông không còn say sưa dạy dịch
Việt-Anh thế nào cho hay, từ Dọc Đường của Thanh Tâm Tuyền đến Mai Thảo, Những
Vì sao của Diệu. Ông đứng trước bảng đen lạc lõng, cầm những tấm bích chương
ông viết tay, nắn nót, danh từ, tĩnh từ, theo mấy cái phương pháp tẻ nhạt của
giáo dục song ngữ (billingual education). Tóc ông bắt đầu thưa. Mắt ông lờ đờ
sau cặp kính. Hai má xệ xuống theo tuổi già. Ông đứng đó, nhưng cũng vẫn phấn
trắng bảng đen. Phấn trắng, bảng đen đeo đuổi ông cho đến hết cuộc đời.
Có một đứa trẻ người Mễ, khoảng 14 tuổi, khi không nổi hứng thổi cái kẹo cao su
vào bố tôi, chiếc bong bóng bay ngang không khí, “đậu” lại trên sân bay là cuốn
sổ tay của bố tôi. Đứa trẻ la lên:
– “Dr. Trần!”
Nó ăn kẹo như vậy đâu có nghĩa nó là hiện tượng Bầy Thú Trước Bảng Đen của
Duyên Anh! Nó chỉ là đứa trẻ nhà nghèo học trường thị tứ, nó thích gì làm
nấy. Theo bản năng tự nhiên. Trong môi trường thị tứ này, không có cái khuôn
khổ nề nếp gọi là văn hóa giáo khoa thư ngày xưa của bố tôi. Của học trò Trần
Quý Cáp, Đồng Khánh, Petrus Ký…Cái văn hóa của một lớp người biết chắp tay,
“Thưa Thầy, con đi!!!”
Chắc vì nghĩ như thế nên bố tôi, cương vị của một nhà giáo dục lưu động, không
có vẻ gì giận dữ. Ông quay lại cười với đứa nhỏ. Nói theo kiểu nôm na của bà
nội tôi, nom ông “lành như Bụt.” Thằng bé chẳng thèm nói xin lỗi. Ông đưa tay
vớt cái bong bóng trên cuốn sổ.
Tôi lặng người. Bố tôi, người giáo sư nước Việt
Nam Cộng Hòa ngày xưa, của khuôn viên đại học, giờ phút này bị biến thành một
nhà giữ trẻ bất đắc dĩ.
Đến giờ ra chơi, bố tôi đi vào phòng giáo sư, ngồi cạnh những đồng nghiệp nói
giọng eo éo miền Nam. Ông ăn miếng bánh mì chả lụa, uống lon sữa đậu nành, nhỏ
nhẹ chép miệng theo kiểu Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Tôi xin cám ơn cộng
đồng Việt Nam hải ngoại đã đem chả lụa với sữa đậu nành vào nước Mỹ rộng lớn dư
thừa chất đạm từ hamburgers cho đến rib eye steak… Chả lụa với sữa đậu nành cho bữa
ăn trưa của bố tôi. Trong mười tám năm, ngày nào cũng một menu đó.
Đêm hôm ấy, tôi, Trần Thị Như Hoài An tức Ann Trần, con gái đầu lòng của một
ông giáo Việt Nam, trằn trọc không ngủ được.
Tôi nhớ đến một vật sở hữu bố tôi
đã có và đã mất.
Tôi nhớ đến chiếc phong cầm của bố tôi.
Như tôi đã nói, bố tôi
có tính quen sưu tầm, lưu trữ, ít khi phế thải một vật sở hữu nào. Bằng chứng
là ông vẫn giữ cái cặp da đầu tiên trong công vụ giáo dục ông mua tại Sàigòn hồi
cuối năm 1955 trước khi lên đường ra miền Trung dạy học, nhất là cái bộ đồ “bốn
túi” kiểu “ký giả” ông mang theo từ 1975. Đó là cái “mốt” một thời của bố tôi..
Nhiều lần, lũ con phải la lối đòi tẩy chay bố để ông khỏi lôi bộ đồ cổ lỗ sĩ ra
mặc.
Giữa đêm tối, tôi chợt hiểu rạ. Tôi hiểu rồi, hiểu cái mất mát
của bố tôi. Cái đau khổ mơ hồ của tôi hôm ấy bắt đầu từ hình ảnh chiếc phong
cầm thời thơ ấụ. CHIẾC PHONG CẦM CỦA BỐ
TÔI. Khi tôi bắt đầu
có trí nhớ thì bố tôi đã có chiếc phong cầm ấỵ. Bố tôi mất nó vào năm 1963,
trong những ngày Huế sôi nổi xuống đường.
Đầu năm 1963, tôi lên sáu, thì bố tôi từ Pháp về. Ông đi du học từ hồi tôi ba
tuổị. Không có bố bên cạnh, tôi sống trong không khí quây quần cuả họ ngoại.
Ngày ông về nước, ông là một hình ảnh xa lạ.
Ông mảnh khảnh, mặt hơi tư lự. Tôi
nhìn ông mà hơi sờ sợ. Những ngày ở Pháp về, ông không vui, có lẽ vì thời cuộc.
Con bé Hoài An ở tuổi thơ dại đó, bèn bắt đầu một công trình nghiên cứu qui mô.
Tôi quyết định nghiên cứu bố tôi. Việc đầu tiên tôi nhận xét là những câu nói
của người nhà. Tỉ dụ, bà vú bảo: “Ông Tây quá,” “Tối ngày ông nghe dĩa hát.”
Những tiếng hát trong vắt, ngôn ngữ xa lạ. Sau này lớn lên, qua Mỹ, tôi mới
biết đó là dĩa hát nhạc kịch My Fair Lady ông mua từ Luân Đôn.
Thời gian sinh
sống ở Nữu Ước, tôi vẫn luôn tự hỏi biết đâu sự say mê âm nhạc và sân khấu của
tôi đã bắt đầu với tiếng ca trong vắt từ cái dĩa hát của bố tôi ngày đó.
I could have sung all night
I could have sung all night
All night
Và tiếng hát vút lên, ngân dài, cao ngất:
All night…
Trong dãy phố Nguyễn Trường Tộ ở xứ Huế êm đềm, chỉ riêng nhà tôi là có cái dĩa hát
quay vòng vòng. Bố tôi cầm cái cần nhẹ nhàng đặt lên dĩa hát, rồi cái dĩa quay
vòng vòng, và tiếng hát xa lạ trong vắt bay ra từ cái hộp. Tôi nghĩ theo bà vú:
“Sao mà nó Tây thế!”
Ngoài cái máy hát, bà vú còn nói bố tôi mặc “áo tơi” đi trong nhà. Tôi đi theo
nhìn bố tôi, thấy bà vú nói đúng. Bố tôi không mặc bà ba trắng có khuy cài như
ông ngoại tôi. Bố tôi mặc cái áo thùng thình cột dây ngang lưng, tương tự như
cái áo đầm dài đến chân (sau này tôi mới biết đó là cái áo robe de chambre). Bà vú
bảo: “Tây ơi là Tây! Ôn ở lỗ mặc áo tơi đi trong nhà!” Tôi cũng muốn bắt chước
bố tôi “mặc áo tơi” đi vòng vòng trong nhà như thế. Bà vú bảo: “Hoài An ơi, dị
lắm. Mi chớ bao giờ bắt chước cha mi!”
Sau đó bố tôi còn vẽ tranh, ông hay đi vẽ với họa sĩ Hiếu Đệ. Ông này hay xoa
đầu tôi rất lâu. Tôi còn nhớ ông ta có cặp mắt kính rất dàỵ.Trong những tranh của
bố tôi, có một tấm vẽ cái thuyền treo ngược. Tôi không hiểu tại sao cái thuyền
lại treo ngược, làm sao chèo được trong những ngày nước dâng ngập Đập Đá hoặc
bão lụt ở miền Trung? Tôi hỏi mẹ tôi. Mẹ tôi cũng không hiểu bố tôi vẽ cái gì. Chỉ có bức tranh Thành Nội có rêu xanh, tường nâu, và hoa sen hồnh là tôi thấy giống ngoài đời. Những hình ảnh cuả Ngõ Chi Lăng, Huế, gần Thành Nội.
Cứ như vậy, con bé Hoài An, lên sáu, nghếch mắt nhìn người bố xa lạ, quan sát
và suy tư.
Rồi bố tôi đem sách Pháp ra dạy tôi học: “C’est une chaise… C’est le chèvre de
M. Seguin…” Sao mà chán quá! Thêm cái màn phải dậy sớm, tắm rửa, thay áo, uống
sữa (một việc mà tôi rất ghét), rồi leo lên xe đạp cho bố tôi đèo đến trường
Jeanne d’Arc tập đàn. Tập đàn thì cũng được đi, nhưng tôi không muốn tập theo
Méthode Rose. Tôi muốn đánh mò bài “Những Đồi Hoa Sim, ôi những đồi hoa sim
tím chiều hoang biền biệt” theo kiểu Phương Dung, con nhạn trắng Gò Công. Sơ
Thanh Tâm mà biết được sẽ khẻ tay tôi đau điếng. Tôi không biết thở than với ai
về những cái khó chịu mà bố tôi bắt tôi phải trải qua.
Tóm lại sự có mặt của bố tôi làm cuộc đời tôi bị xáo trộn. Tôi không còn được
ngủ chung giường với mẹ tôi. Tôi phải ngủ giường ngoài, loại giường gỗ dành cho
con nít. Tôi van vái Trời Phật cho ông đi du học thêm một lần nữa thì đỡ quá!
Van vái xong, tôi rón rén ghé tai vào cửa phòng nghe bố mẹ tôi nói chuyện. Bố
tôi hay độc thoại nói “ràm ràm.” Mẹ tôi ngoan ngoãn ngồi nghe như tín đồ nghe
kinh. Bà vú bảo, “Giống người điên. Ôn học giỏi quá, hóa điên!”
Sau này khi lớn lên, được yêu và mong mỏi được người yêu thông
hiểu, tôi mới cảm nhận được thế nào là nỗi buồn khi phải nói một mình, và khi
phải nghe người khác nói vì bổn phận.. Để thương xót cho cuộc tình và hôn nhân
của bố mẹ tôi. Một người nói, một người nghe. Phải chi cứ như người từ hành
tinh khác đến, truyền thông bằng tư tưởng. Nhìn bằng mắt, hiểu nhau ngay. Thì
tình trường đỡ đau buồn, chật vật. Và nhân duyên đỡ cay đắng, đoạn trường vì
người ta không hiểu được nhau.
Thế nhưng tuổi lên sáu bé dại, tôi thấy chuyện bố tôi “đọc kinh” cho mẹ tôi
nghe một chiều là điều vừa kỳ quặc, vừa hào hứng.
Có lần tôi nghe bố tôi đọc một đoạn văn cho mẹ tôi nghe, tôi thấy rất lạ lùng,
và kết luận chắc là bố tôi điên đúng như bà vú nói. Tôi kể lại với bà vú, bố
tôi nói gì về con lừa, về vũ trụ có đồ đạc lổn ngổn. Bà vú lè lưỡi, khuyên tôi
sau lớn lo lấy chồng đừng có học giỏi làm chị. Và nhất là chớ có đi Tây. Sẽ
điên giống bố tôi.
Ba mươi bốn năm sau, ngồi ở Nữu Ước, nhìn ra vòm trời đầy ánh điện, tôi đọc lại
một đoạn văn của bố tôi viết ở Huế nhân dịp ông xem tranh của họa sĩ Đinh
Cường. Một vài năm trước biến cố 1975, ông đem bài bình luận ấy quay ronéo cho
sinh viên Văn Khoa Sài Gòn dịch ra tiếng Anh. Thời thơ ấu hiện về, tôi mới nhớ
ra đó là đoạn văn tôi đã nghe lóm ngày xưa qua khung cửa phòng của bố mẹ tôi:
“Trong vũ trụ, súc vật, đồ đạc, người ngợm lổn ngổn, những võ công thức cứng
ngắc, rỗng tuếch, đập bửa ra toàn chất liệu chết, ù lì, đặc sệt; những cái đầu
gỗ lọc cọc múa nhảy trên đường, những trường thành góc cạnh lì lì chắn lối;
những xe cộ, bàn ghế, cây khô tĩnh vật đắp ụ ngõ xóm; đất rác từng đống sát mũi
cửa nhà, bịt kín công lộ. Những cái cứng ngắc, lổn ngổn, trì độn ấy làm nghệ sĩ
đi một bước là đụng, là đá, là vấp chạm đủ mọi chướng vật. Ấy là cái thế giới
hình thể hiện thực bủa kín nghệ sĩ, muốn bò-sát-hóa thân phận nghệ sĩ. Nó bảo:
mày làm con lừa kéo gỗ đi. Nó hô: cúi đầu xuống, uốn đuôi lên. Thế giới hình
thể hiện thực vong thân nghệ sĩ bằng đủ kiểu phỉnh phờ. Nó chắp cánh gỗ cho
nghệ sĩ bay vào thế giới lãng mạn, trăng sao mây nước. Nó gạt nghệ sĩ vào vũ
trụ ấn tượng mù, lung linh bàng bạc. Rồi, rất biện chứng, nó đá đít những tâm
hồn nghệ sĩ đích thực…
Tôi không tự hỏi Đinh Cường đã đi vào trừu tượng thế nào ? Cái đó chẳng quan hệ
gì đến người xem tranh, dĩ nhiên. Sự hiện hữu của trừu tượng Đinh Cường, tôi
sẵn nhìn nó trong hình ảnh một bứt phá…” ́***
Đọc đoạn văn của bố tôi viết trên ba thập niên, tôi giật mình sợ hãi. Tôi không
nghĩ là bố tôi viết về tranh Đinh Cường. Mà ông viết về chính mình. Về con mắt
nhìn tranh. Ông đã thay tôi viết về thân phận con ngườị: Cá tính trí thức và
nghệ sĩ trong một môi trường tàn bạo đòi hỏi sự bứt phá. Dường như có sự tiên
tri. Đoạn văn ngắn này áp dụng được vào khung cảnh của một Sài Gòn nhân mãn
quay cuồng trong kinh-tế-thị-trường-xã-hội-chủ-nghĩa ngày nay, vào ngay cả cái
thành phố Nữu Ước này trước thế kỉ hai mươi mốt. Cái khoảng cách khác biệt giữa
Cộng Sản và Tư Bản, giưã Mỹ và Á, trong kỷ nguyên mới (New Age) đã hoàn toàn biến mất trong đoạn
văn của bố tôi. Cả hai bên cuả thái cực đều có những con lừa kéo gỗ và sự bứt phá trong của
tâm hồn nghệ sĩ trước môi trường và sức ép chung quanh.
Rồi tôi rùng mình tự
hỏi: năm 1965, khi viết lên những dòng trên, bố tôi có biết chăng đứa con gái
nhỏ đầu lòng của mình, trên ba mươi năm sau, cảm thấy nó là con lừa trong vòng
quay tới tấp của xã hội Mỹ. Goldman Sachs đã vô hiệu hóa những ngón tay của
tôi, không thả cho ngón tay tôi mềm mại trở về với phím trắng dương cầm. Ở tuổi gần
bốn mươi, tôi mong cầm bút để thay thế phím trắng dương cầm. Tôi ngậm ngùi hiểu
ra rằng trong căn bản bố con tôi giống nhau. Chúng tôi, qua hai bối cảnh, hai
thời điểm khác nhau, ở tuổi trung niên đều mang tâm trạng của những con lừa kéo
gỗ.
Thế nhưng, trong những ngày tháng ở Huế năm 1965 khi bố tôi viết
những dòng trên thì bố con tôi không nói chuyện với nhau. Bố mẹ Việt Nam thời
đó không đến gần con nít, tối tối phải đọc truyện cho con nghe như bố mẹ ở Mỹ thời nay. Sự tương đồng về tâm trạng con lừa, về thân phận con người và kiếp
lưu đày của tâm hồn nghệ sĩ, phải ba mươi bốn năm sau tôi mới nhận thấỵ.
Tuy nhiên, tôi xin tâm sự với độc giả một chi tiết rất quan trọng trong quãng
đời thơ ấu của tôi. Khoảng thời gian 1964-65, ở phố Nguyễn Trường Tộ, Huế, bố
con tôi có nói chuyện với nhau. Một cuộc nói chuyện thầm lặng qua chiếc phong
cầm. Tiếng đàn phong cầm của bố tôi. Công cuộc nghiên cứu về người bố của bé
Hoài An có khúc này là thú vị nhất.
CHIẾC PHONG CẦM CỦA BỐ TÔI!
Tôi còn nhớ rõ mồn một. Nó đẹp vô cùng. Những phím trắng nho nhỏ
màu ngà, đục mà lại sáng bóng. Màu ngà còn đẹp hơn những thẻ "xâm hường" (****) điểm son
của bà ngoại tôi. Khác với đàn piano, những phím đen cuả phong cầm chỉ là những hạt nh̉ỏ, nằm thẳng đều đặn, cũng sáng bóng như răng hạt
huyền của người đẹp Bắc Ninh xưa. Ở giữa những phím trắng với những phím đen là
một khoảng huyền bí. Những nếp xếp kéo đi kéo lại, co vào, giãn rạ, huyền hoặc
và lôi cuốn!
Trong công cuộc nghiên cứu về bố tôi từ ngày ông ở Paris về
nước, ngay buổi đầu tôi đã chú ý đến chiếc phong cầm. Buổi chiều khi đi học ở
Jeanne d’Arc về, tôi hay bắt gặp bố tôi đứng đánh đàn bên cửa sổ trong trời mưa
phùn xứ Huế. Mặt ông chăm chú không giống ai, môi chu lại một cách rất say sưa,
vì ông phải tập trung tinh thần mà “thả hồn vào âm điệu.” Những ngón tay nhịp
nhàng bấm phím, hai bàn tay kéo ra kéo vô, cái đàn nằm trên ngực bố tôi lắc lư
theo âm điệu. Tôi thích bố tôi đánh đàn, lý do giản dị là vì ông ham đánh đàn
không bắt buộc tôi học tiếng Pháp, “C’est une chaisẹ…C’est le chèvre de M.
Seguin,” một điệp khúc vô cùng nhàm chán.
Xin lưu ý độc giả, bố tôi không phải là một nhạc sĩ. Tiếng đàn của ông có lúc
rè rè, có lúc êm ái mê ly, tùy theo cái hứng nghệ sĩ của bố tôi. Ông cũng không
phải là ca sĩ, dù có lúc ông hát ong ỏng theo tiếng đàn. Thế nhưng tiếng đàn
tiếng hát của bố tôi đã tạo dựng nên repertoire những bản nhạc Việt đầu tiên mà
tôi ưa thích mãi cho đến bây giờ. (Bài Những Đồi Hoa Sim không kể, đó là kết
quả của sự tuyên truyền và tẩy não của bà vú tôi, vốn mang tâm hồn rất bình
dân...học vụ!)
Thuở ấy, Trịnh Công Sơn, một thanh niên ốm o, đeo kính cận là hàng xóm của
chúng tôi. Thời điểm đó, Trịnh Công Sơn vừa làm xong bài Lời Buồn Thánh. Cái da diết, ủ ê của
Lời Buồn Thánh cần phải được diễn tả bằng tiếng sắc-xô-phôn. Không có kèn, bố
tôi xài đỡ chiếc phong cầm. Tôi thuộc lòng Lời Buồn Thánh từ đó.
“Chiều Chủ Nhật buồn,
nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Bạn bè rời xa chăn chiếu
Ô hay mình vẫn cô liêu ….
Ô hay còn đến bao giờ??? ”
Mãi về sau, năm ba mươi hai tuổi, tôi bắt đầu để lại tóc dài thẳng đuột. (Trước
đó, tôi uốn quăn theo kiểu Donna Summers cho thiên hạ lầm tôi là người Nam Mỹ Tôi xin thú thực tôi cũng có tinh thần “vọng ngoại” như vài người cùng xứ sở
với tôi, thích ăn bơ hơn nước mắm). Có lần, với mái tóc như thế, tôi mặc áo
gypsy dấu mai-crô-phôn dưới tóc, gập người lại mà rên rỉ Lời Buồn Thánh theo kiểu
jazz, kiểu blue trước đám thực khách Mỹ. Họ mải ham ăn, không ai để ý xem tôi
hát cái tiếng...nước...non gì!!!
Dưới ánh đèn, trong khói thuốc của một quán ăn nhỏ ở
Adams Morgan, Washington, DC, như một kẻ trá hình cố tình bỏ quên quá khứ, tôi cố nuốt nứớc mắt mà vẫn nhớ lại những buổi chiều mưa phùn xứ Huế, bố tôi
đứng trầm ngâm bên khung cửa mà đếm tiếng mưa, cái đàn phong cầm đeo ở ngực.
Thế là tôi, vừa mới để lại tóc dài thẳng đuột theo kiểu Việt Nam, chợt vứt cái mai-crô-phôn đi, mà hát gào cho quá khứ, cho chiếc phong cầm của bố tôi:
Chiều Chủ Nhật buồn, lặng nghe gió đi về…
Chiều Chủ Nhật buồn, lặng nghe gió đi về…
Gió đưa tôi về căn phố Nguyễn Trường Tộ, Huế, nơi mà Trịnh Công Sơn viết Lời
Buồn Thánh, và bố tôi đã dùng chiếc phong cầm nói lên Lời Buồn Thánh. Hết Lời
Buồn Thánh, chiếc phong cầm của bố tôi lại nỉ non điệu nhạc Phạm Dụy. Và khi
khôn lớn tôi mới biết rằng trong ký ức tôi, những âm điệu này đi đôi với cặp
mắt Sơn Tây của bố tôi, cặp mắt Sơn Tây của chất thơ Quang Dũng.
Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
Chờ con lúc đêm khuya
Người con đã ra đi vì nước
Nhớ thương con oán thù loài giặc kia
Lúc xa nhau mong chờ ngày chiến thắng
Bóng dáng người hùng anh
Về ấm lũy tre xanh
Khi khôn lớn, tôi lẩn thẩn suy nghĩ: Làm sao
chiếc phong cầm Tây phương đó, xuất thân từ nước Ý ̣(nơi bố tôi đã mua nó từ một ông cố đạo), lại có thể đem tôi đến với
núi rừng Việt Bắc, với con người Quang Dũng, với tiếng hát hành quân xa, nếu
không có tâm hồn rung cảm của bố tôi và sự đồng điệu trong máu huyết giữa bố
con tôi. Những năm đó, tôi chẳng biết gì hết, chỉ biết yêu thích cách bố tôi
lắc lư, cái đàn kéo ra kéo vào, và âm điệu da diết của tiếng đàn.
Và đó là cách hai bố con tôi nói chuyện với
nhau, qua chiếc phong cầm, trước khi tôi biết thế nào là thân phận con người
trở thành con lừa kéo gỗ….
Chao ơi, tôi thương xót làm sao tiếng phong
cầm của bố tôi!
----
Không nói ngoa với độc giả, tôi tự hào mình là
con bé “thông minh vốn sẵn tính trời…” Vì là con nhà giáo, tôi biết đọc năm
lên bốn. Và ở tuổi lên sáu, tôi đã rất khoa học trong công trình nghiên cứu về
bố tôi. Tôi lục lọi trong cái rương cũ, tìm thấy thông tín bạ của ông hồi ông
học trường Bưởi, Hà Nội. Trang đầu thông tín bạ có những dòng chữ sau đây:
Tên họ học sinh: TRẦN Quốc Ngữ
Quê quán: Sơn Tây
Tên cha/hoặc giám hộ: TRẦN Quốc Nho
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Bố tôi đó, một thiếu niên, con cụ Tổng Nho, tổ
tiên lập thân từ đồng ruộng làng Bún, miền Bắc, phía tây thành Thăng Long của
nước Việt Nam hình chữ S. Tổ tiên tôi từ đời Trần đã quen nghề cày ruộng lấy
thóc bán nuôi con cái đi học.
Điển hình là ông nội tôi, cụ Tổng Nho, nuôi
đàn con trai ăn học, dâng gạo nuôi quân cho Việt Minh đánh Pháp để rồi trở
thành nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất bắt nguồn từ bên Tàu với ông lãnh tụ
quái gở Mao Trạch Đông.
Năm 1993, Goldman Sachs, Merril Lynch, Bank of
America, cùng bao nhiêu cơ quan kinh tài quốc tế khác tổ chức một cuộc du hành
các nước đang phát triển ở Á Châu để nghiên cứu vấn đề thiết lập thị trường
chứng khoán theo kiểu kinh tế thị trường, nhằm "tư vấn" cho Việt Nam. Dĩ nhiên là nhân viên cuả Goldman Sachs, tôi cũng xách cặp đi theo. Cuộc viễn
du này cho tôi có dịp về thăm Hà Nội. Tôi thuê xe đi về Hà Tây (Sơn Tây cũ), cùng với hai
đồng nghiệp người Anh vì hiếu kỳ mà tình nguyện đi với tôi. Tôi đi về làng Bún,
đôi mắt tròn lên, lạ lùng, bỡ ngỡ:
Tôi đứng bên bờ đê, lặng nhìn những mẫu ruộng nho
nhỏ, giữa ruộng có những ngôi mộ nằm trong nước. Tôi nhìn con bò, gầy ơi là gầỵ!
Con bò Việt Nam, nó gầy cũng như bố tôi gầy
trong tấm hình chụp năm 1954. Rồi tôi nhìn cái xe bò, cái xe bò Việt Nam cộc
kệch cuối thế kỷ hai mươi. Và tôi nhìn hai người đàn bà đứng tát nước còn gầy
ốm hơn con bò. Tôi tìm ra ngôi mộ của cô tôi, chị ruột bố tôi, chết trẻ trong
cuộc chiến tranh Việt Pháp. Ngôi mộ nằm giữa ruộng. Tôi nghĩ thịt xương tổ tiên
tôi đã tan vào đất, từ đó mọc lên những hạt gạo “xuất khẩu” của Việt Nam. Khi
ăn hạt gạo xuất khẩu, tôi có bao giờ nghĩ là đang ăn thịt xương của tổ tiên
tôi? Tôi ngửa mặt lên trời tìm vừng mây trắng. Xa xa kia là sông Đà, núi Tản
của Nguyễn Khắc Hiếu. Đâu đây là nét “vời vợi buồn Tây Phương” của Quang Dũng. Tôi
mỏi mắt nhìn cho ra một nét quen thuộc nào đó, lắng nghe cho thấy “tiếng hát
hành quân xa” và tự hỏi: nơi chốn này có yêu tôi không, hay đang nhìn tôi xoi
mói, tôi con người đi về quê cha trên đôi giầy ReeBox?..
Bên bờ ruộng, tôi quay lại nhìn "con đường cái quan" hẹp đầy ổ gà. Lúc ngồi
xe về làng, tôi cứ va bên này, chạm bên kia giữa hai đồng nghiệp người Anh to lớn. Tôi
nhìn sang bên kia đường là “Nghĩa Trang Liệt Sĩ Xã Phụng Thượng Trong Cuộc
Chiến Tranh Chống Mỹ.” Bên này đường là “Quán Thịt Chó Thơm Ngon.” Đây, Con
Đường Cái Quan của Phạm Duy từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, con đường mà bà nội
tôi đã đội nón lá đi bộ dưới nắng chang chang trốn ra Hà Nội ngày ông bà phải bỏ làng vô Nam để tránh thảm trạng Đấu Tố Địa Chủ.
Trước "con đường caí quan," tôi nhắc đi nhắc lại như người mất hồn với hai đồng nghiệp:
– “Sao mà nó nhỏ thế, con đường này, đồng
ruộng này, đường chân trời này!” (How come everything is so small?)
– “Ông nội tôi bị kết tội địa chủ vì có chút
đồng ruộng này sao ?” (My grandfather got a death sentence because of these
little paddies?)
Hai người đồng nghiệp nhún vai, không nóị. Tôi
không thể trông chờ họ hiểu. Tôi cũng không nghe tiếng linh hồn cô tôi đón chào trong gió. Quanh tôi chỉ có hai đồng
nghiệp người Anh im lặng đứng nhìn.
Tất cả không giống như trí tôi tưởng tượng.
Khi tôi đã quen nhìn xa lộ thênh thang của nước Mỹ, những vườn táo mênh mông ở
Illinois, những vườn cam bát ngát ở Florida. Tôi cứ hỏi đi hỏi lại, ông tôi
suýt nữa bị dẫn ra đình làng chịu đấu tố chỉ vì ít mẫu ruộng này ư? Trong bao
nhiêu năm nghe ông bà tôi kể chuyện, không hiểu sao tôi cứ tưởng tượng ruộng
đất phải bao la cò bay thẳng cánh như tiểu bang Arizona. Phải nhiều lắm, lớn
lắm thì mới bị tố địa chủ chứ?
Bây giờ sau chuyến về thăm đó, tôi mới biết
thế nào là sự nho nhỏ, con con, như cái nước Việt Nam trên bản đồ thế giới, như
cái số phận nho nhỏ, con con của con bò, của cái xe bò, của hai người đàn bà
tát nước. Ngay cả đến ruộng đất phì nhiêu đã gây nên cái án địa chủ cho ông bà
nội tôi cũng nho nhỏ, con con. Cái thảm khốc của nhân loại lại nằm ở trong
những gì nho nhỏ, con con?
----
Trong công trình nghiên cứu về bố tôi năm lên
sáu, tôi bắt gặp tấm ảnh 4 x 6 của một cậu con trai, dán trên thông tín bạ. Cậu
có hai con mắt dài, xếch như một nét mực tàu sắc sảo. Khi lớn lên, tôi mới hiểu
đó là cặp mắt Sơn Tây đã làm xót xa lòng Quang Dũng. Bên nội tôi, đa số đều có cặp
mắt đó. Ngay cả những đứa em họ sinh sau đẻ muộn làm công dân Mỹ, lọt lòng mẹ
trong nhà thương Mỹ, cũng mang vào Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ cặp mắt Sơn Tây của
núi rừng Việt Bắc và hồn thơ Quang Dũng.
Mẹ tôi kể trong thời gian học trường Bưởi, bố
tôi theo học phong cầm với một ông cố đạo. Khi đi du học, qua Ý chơi, gặp một cố đạo choi đàn phong cầm, bố tôi năn nỉ rồi mua đàn của thầy tu. Đó là tiểu sử
chiếc phong cầm của bố tôi. Nó xuất thân từ nước Ý, du nhập vào Hà Nội đầu thập
niên 1950.
Khi di cư vào Nam, ông bà tôi đi trước, bố tôi
là người cuối cùng rời Hà Nội vào Nam. Bố tôi đáp xe lửa từ Hà Nội xuống Hải
Dương, rồi đạp xe đạp từ Hải Dương xuống Hải Phòng. Bố tôi để cây đàn ghi-ta,
thêm cái phong cầm lên xe đạp mà đạp. Trên đường đi, ông bán mất cái ghi-ta.
Bán luôn đôi giày da. Nhưng không bán chiếc phong cầm. Bố tôi lên tàu bay vào Nam,
có chiếc phong cầm mà không có đôi giày che gót. Tôi mường tượng cậu thanh niên có cặp mắt Sơn Tây đạp xe đạp, đèo theo chiếc phong cầm, những vòng bánh xe
cũng giống như những vòng bánh xe bố tôi đạp chở tôi đi học dương cầm ở Huế.
Chiếc phong cầm theo cậu trai trẻ lên máy bay
từ Hải Phòng vào Sài Gòn. Rồi vào trại sinh viên. Bố tôi sống nghèo ở miền Nam
mà đi học trong kiếp di cư. Chiếc phong cầm luôn luôn đi theo ông như một tình
nhân yêu kiều, chung thủỵ.
Rồi bố tôi ra Hội An, dạy trường Trần Quý Cáp,
vẫn khư khư giữ cái phong cầm. Tôi ra đời trong tình yêu của bố mẹ và được tặng
cho cái tên Trần Thị Như Hội An, để đánh dấu thành phố nơi bố mẹ tôi đã gặp
nhau. Sau này mẹ tôi đổi thành Trần Thị Như Hoài An để tránh dấu nặng trong
tên con gái. Ngày mẹ tôi ẵm tôi từ bệnh viện về nhà, chắc là cái phong cầm đứng
nhìn đâu đó, mà tôi thì nhắm tít mắt như mọi trẻ sơ sinh khác.
Rồi bố tôi đi Pháp. Khư khư đem cái đàn theo.
Mẹ tôi phàn nàn: “Ở bên ấy thiếu gì đàn, vậy mà cha con cũng đem nó theo cho
được.” Mẹ con chúng tôi ở nhà, chứ cái đàn thì đi Pháp theo bố tôi.
----
Công cuộc nghiên cứu về bố tôi năm tôi lên sáu
tuổi vẫn tiếp tục suốt thời gian 1963-65. Tôi kiếm thấy bức hình đen trắng bố
tôi ngồi bên lan can căn phòng sinh viên ở đại học xá lầu bốn. Paris trải rộng
dưới chân. Bố tôi gầy như cây tăm, ngồi ôm chiếc phong cầm, gác hai chân lên
lan can màu đen, nom rất thoải mái và rất “hip.” Tôi nhìn bức hình ấy mà mơ ước
sau này mình cũng đi du học Paris và cũng ngồi gác chân lên lan can nhìn xuống
thành phố. (Tôi đâu ngờ rằng, sau này lớn lên tôi làm một cuộc du học trường
kỳ…).
Rồi thì cái đàn theo bố tôi về nước. Và tôi
gặp nó ở căn phố Nguyễn Trường Tộ, Huế. Lần này thì tôi thôi không nhắm tít mắt
như một trẻ sơ sinh nữa.
Tôi nhớ mãi buổi chiều mưa phùn xứ Huế. Tôi
trốn bố tôi (tôi thường hay chơi trò “trốn tìm” một mình) sau bức màn cửa phòng khách.
Bố tôi đánh đàn xong thì để nó trên ghế. Thế là tôi nhảy tỏn ra. Tôi đứng mân
mê, sò mó cái đàn. Tôi bấm thử, sao đàn không ra tiếng? Tôi khệ nệ tìm cách đeo
nó vào cổ. Tôi say mê, nâng niu nó. Ôi "tiếng hát hành quân xa" với những "chiều
Chủ nhật buồn" không nắng trong căn nhà nóng hâm hấp "lặng nghe gió đi về!" Ai xui
khiến cho cái đàn này làm mọc chất nghệ sĩ trong tôi! Để ba mươi bốn năm sau
tôi từ bỏ Goldman Sachs? Tôi muốn ẵm nó lên để đu đưa như bố tôi. Nhưng nặng
quá. Cứ thế này thì nếu tôi không té, cái đàn cũng sẽ té.
Bỗng bố tôi bước vào. Tôi sợ muốn khóc vì bị bắt quả tang, tưởng
rằng sẽ bị đòn. Nhưng không, nét mặt bố tôi bình thản, đôi mắt Sơn Tây như hai
vết mực tàu sắc nét. Đó là lúc ông thấy tôi bé quá không bê nổi chiếc phong
cầm. Ông quyết định đem tôi đi gặp Sơ Thanh Tâm để xin học đàn dương cầm.
Từ hôm đó, sáng nào ông cũng gọi tôi dậy sớm,
bắt uống sữa, thay váy đầm. Rồi chở xe đạp đưa tôi đến trường Jeanne d’Arc học
đàn…
Chung qui cũng bởi chiếc phong cầm của bố
tôi.
____
Bạn đọc có tin rằng cái chết không kết liễu
đời người, vì phần hồn còn đi về đâu đó. Bởi thế mẹ tôi cứ cúng tổ tiên ông bà,
bắt tôi thắp nhang mà lạy. Người Việt Nam chúng ta thờ linh hồn những người
thân đã chết.
Năm lên sáu, tôi tự hỏi vật vô tri chết đi có
còn phần hồn vất vưởng hay không. Khi lớn lên, suy nghĩ theo Lamartine, thì câu trả lời là có: "Objets inanimés, avez vous donc une âme...? ́́(****́) "
Chiếc phong cầm gặp tôi, rồi nó mất
đi. Và tôi thắc mắc mãi phần linh hồn của nó đi đâu ? Tôi thắp nhang cúng nó
được không?
Xứ Huế không phải là xứ yên bình. Cái yên bình
của Huế chỉ là yên bình giả tạo. Những năm 1961-63, Huế là một ngọn lửa cách
mạng hừng hực, sẵn sàng bừng cháỵ từ chùa Từ Đàm, nơi mà mẹ tôi vẫn đem tôi đi lễ Phật.
Đó lần đầu tiên trong đời tôi
được nghe danh từ “cách mạng.”
Tôi phải lớn hơn mới hiểu được căn bản của vấn
đề. Nếu có Cách Mạng, thì làm gì có Hoài An? Mà đã có Hoài An thì không có Cách
Mạng. Từ năm lên sáu, ở thành phố Huế buồn ngủ ấy, tôi chưa đủ trí tuệ để hiểu
thế nào là đấu tranh, nhưng tôi đã mường tượng một điều gì ghê sợ. Rằng tôi
sinh ra trong một xứ sở có nhiều vấn đề. Những vấn đề ấy ở ngoài tầm tay tôi,
nhưng chúng tạo nên định mệnh của tôi, như lưới giăng, như cơn lốc kéo thốc tôi
vào.
Dấu hiệu bất an đầu tiên là ngày Phật Đản. Một
ngày vui mừng tôi và các em tôi mong mỏi để được xem xe hoa. Thế nhưng mẹ tôi
cấm không cho chúng tôi đi xem. Xe hoa đi ngang nhà tôi, mẹ tôi không cho chúng
tôi ghé đầu ra xem. Bảo nguy hiểm. Sau nhũng bức màn cưả mảnh mai tơ lụa, chúng tôi vẫn thấy được tượng Phật đứng trên
tòa sen trắng nõn, tay chỉ lên trờị. Nom Phật bụ bẫm dễ thương. Em tôi bảo: “Sao
Phật giống em bé quá!”
Chỉ một lúc sau xe hoa vừa đi khuất, bà vú đã
chạy vào thì thầm, “Công an giựt sụp xe hoa rồi, Phật đổ.” Tôi cho rằng đó là
chuyện kinh khủng. Cái gì đổ thì đổ, chứ Phật làm sao đổ được. Điều ghê sợ
khủng khiếp nhất, một sự lật đổ nào đó ngoài tầm tay những người dân bình
thường, đã bắt đầu ám ảnh tôi.
Thường thường mẹ tôi hay cho chúng tôi đi chùa
Từ Đàm. Nhưng năm đó, chúng tôi không được lên chùa, mặc dù tôi thích lên chùa
để được múạ hát: “Một hôm, một hôm mồng một đến chùa, cùng me đi lễ Phật, dâng vài
hoa sen, đến chuà dâng cả hồn em....” Bà vú thì thầm, “Hoài An ơi, lên chùa thì công an bắt!” Tôi nín bặt
vì sợ.
Bên cạnh những cái điều bất an đó, bố tôi vẫn
kéo phong cầm để nói chuyện với tôi qua Tiếng Hát Hành Quân Xa và Lời Buồn
Thánh.
Thuở ấy, tôi không biết mặt những người bạn
văn nghệ của bố tôi ̣̣(Maĩ đến khi khôn lớn, tôi mới biết họa sĩ Đinh Cường và nhà văn Doãn Quốc Sĩ.) Ở Huế, tôi chỉ
nhớ có hai người: Bác A. và chú M., nhưng chỉ có chú M. là liên quan đến chiếc đàn phong cầm, vì chú M. là một nhạc sĩ. Chú ấy vui tính
và buồn cười lắm. Cả nhà ai cũng yêu mến chú M. Trừ bà vú:
– “Ôn nớ là nhóm cách mạng chống Cần Lao đó
Hoài An ơi!. Ôn nhà ni mà cứ giao du hoài là có ngày cậu Cẩn tới chặt đầu.”
Bà vú nói chi ghê quá. Tôi hỏi Cần Lao là gì?
Bà vú bảo Cần Lao là cậu Cẩn đó. Tôi hỏi cậu Cẩn là ai? Có giống chú M. không?
Bà vú nói: “Con ni ngu quá. Nói tầm bậy coi chừng bị chặt đầu. Hay chết kiểu
Quách Thị Trang.” Tôi không dám hỏi bà vú Quách Thị Trang là ai, và tôi biết đó là
một người đã chết. Tôi biết ngừng hỏi, và tôi co người lại vì sợ.
Trong những ngày tháng đó, bố tôi ít nói, ít
kéo phong cầm. Cái đàn nằm cô đơn. Thỉnh thoảng chú M. vẫn ghé chơi. Hai người
đóng cửa phòng nói chuyện rì rào.
Rồi một hôm, chú M. lại ghé thăm. Bố tôi mặc
áo đi theo. Ông dặn mẹ tôi ông sang nhà chú M. ở phía bên kia sông Bến Ngự. Dãy
phố Nguyễn Trường Tộ nằm bên này sông. Bên kia cầu là nhà thờ Phủ Cam. Bên trái
nhà thờ là một dãy nhà kiểu Tây rất đẹp. Một trong những căn nhà đó là nhà chú
M. ở. Bố tôi dặn gia đình là ông sẽ đi khá lâu. Ông đi theo chú M. Đã ra đến
cửa, ông còn quay lại lấy chiếc phong cầm. Cái đàn đi theo ông qua nhà chú M.
Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chiếc đàn. Tôi linh cảm cái gì
không hay sẽ xảy ra. Tôi chạy theo nắm áo bố tôi đòi đi theo. Tôi bíu chiếc đàn
như muốn giữ nó lại.Chú M. chế giễu tôi con gái hay khóc nhè.
Tối đêm đó, tôi đang ngủ say thì có tiếng khóc
than, tiếng bà ngoại tôi kêu la. Tiếng người xôn xao ngoài ngõ. Nghe dễ sợ lắm.
Tôi chạy ra thảng thốt. (Từ đó lớn lên, tôi rất sợ những khi đang ngủ thì bị
thức dậy vì biến cố.)
Tôi vẫn còn nhớ tiếng người nói: “Nhà ai cháy?
Công an đốt nhà ai?”
Tôi nghe mẹ tôi nức nở, “Trời Phật ơi, phải nhà chú M.
không? Mạ ơi, anh con ở bên nhà chú M..Thôi rồi mạ ơi…”
Tôi thấy mọi người đổ xô ra cửa. Tôi cũng chạy
ù ra. Mẹ tôi nắm chặt tay tôi. Bà vẫn kêu khóc.
Ông ngoại tôi điềm tĩnh hơn. Ông nói, “Đã chắc
chi ông Ngữ ở bên đó. Để ba mặc áo lên chùa. Hay qua dinh cha Thục hỏi…” Mẹ tôi
vẫn điên cuồng kéo tay tôi và bà ngoại xô ra đường.
Đám đông đứng đầy dọc bờ sông Bến Ngự bên hông
nhà tôi. Chỉ trỏ xôn xao. Tôi nhìn qua bên kia sông. Ngọn lửa ngùn ngụt cháy.
Tôi thấy bên kia bờ sông có bóng dáng những người cầm súng. Người đứng quanh
tôi nhỏ to, “Công an đốt truyền đơn.” Mẹ tôi ngất xỉu. Bà ngoại tôi vật vã. Tôi
kêu khóc không thành tiếng. Phía bên kia sông lửa ngùn ngụt cháy, ở đó có chú
M., bố tôi, và chiếc phong cầm. Tôi nhìn thấy lần đầu tiên cái kinh khủng của
cách mạng. Nói đúng hơn của bạo lực: lửa cháy để bùng nổ cho cái gọi là cách mạng.
Đó là lần đầu tiên tôi thấm hiểu trong trí óc
non nớt của mình, tôi sinh ra trong một đất nước của những người dân thích làm
cách mạng. Của những người dân hay mang kiếp tù đày. Lý do? Tây, Tầu, Nga, Mỹ?
Cái nghèo, cái cực, cái nô lệ, cái xâm lăng? Vân vân và vân vân. Trước Chúa bác
ái, trước Phật từ bi, chúng ta cầm súng giết nhau đi rồi gọi đó là cách mạng.
Ông ngoại tôi nói đúng. Gia đình tôi có phước. Một ngày sau bố tôi
về. Một cơn ác mộng vừa qua.
Tôi đứng xớ rớ tìm cách lắng nghe chuyện người
lớn. (Tôi là một đứa nhỏ rất thích nghe chuyện người lớn, âu đó cũng là cái
nghiệp chướng của tôi. Có khi tôi nghĩ tự mình là mất tuổi thơ vì cái đầu tôi
tò mò ưa suy nghĩ.) Tôi nghe ra được chú M. chạy trốn lên chùa. Nhà thì cháy
tan nát. Mẹ và bà ngoại tôi đốt nhang khấn bàn thờ tạ ơn tổ tiên trời đất đã
cứu bố tôi.
Tôi đứng trước cửa nhà nhìn qua bên kia sông.
Ngọn lửa đã tàn. Cảnh tượng tiêu điều thảm hại. Lần đầu tiên tôi chứng kiến sự
u ám của những gì còn lại sau một cuộc tàn phá.
Chú M. không cháy. Bố tôi không cháy. Còn
chiếc phong cầm? Phải chăng nó cháy giùm cho bố và chú M. yêu mến của tôi? Tôi
òa khóc chạy vào nhà. Mẹ và bà ngoại tôi còn trong cơn mừng rỡ, còn lo nhang
đèn. Không ai nghĩ đến chiếc phong cầm xấu số.
Tôi nức nở trong lòng bố tôi. Nhưng ông nghiêm
mặt cấm không cho tôi khóc. (Những người bố Việt Nam, ai cũng ghét than khóc,
cho đến ngày họ già. Bây giờ trong tuổi sáu mươi ngoài, bố tôi mau nước mắt.
Thỉnh thoảng là tròng mắt đỏ hoe. Mắt ông hay đỏ hoe khi các con về thăm rồi
lại đi, còn lại căn nhà yên vắng với hai vợ chồng thui thủi.)
Bố tôi nói lên điều mà tôi đã biết:
– Cái đàn cháy trong nhà chú M.
Tôi vụt khỏi vòng tay của bố tôi. Tôi chạy ra đứng trước cửa nhà nhìn sông Bến
Ngự. Tôi nghe có ngọn gió đi về. Chiều chủ nhật buồn lặng nghe gió đi về. Trên
ngọn gió đi về, có chăng linh hồn chiếc phong cầm của bố tôi?
Từ đó, bạn đọc có thể đoán ra, bố tôi chẳng bao giờ kéo phong cầm nữa.
____
Bà vú nói, cách mạng thành công và Phật tử khỏi bị đàn áp. Tôi
thôi không học trường Jeanne D’Arc nữa. Tôi đổi về trường Phú Vĩnh. Hình Ngô
Tổng thống treo trên tường bị hạ xuống. Đem ra đập tan nát. Cách đó không bao lâu,
lũ trẻ con chúng tôi vẫn còn hát, “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống…”.
Sau cách mạng, Ông ngoại tôi, một công chức dưới triều Ngô, nghỉ việc về hưu
sớm.
Cách mạng thành công, nhưng tương lai công danh bố tôi chẳng sáng sủa gì hơn.
Có sự vụ lệnh đổi bố tôi vào dạy ở Quảng Trị, chốn
bom đạn chiến trường. Mặt bố tôi càng khó đăm đăm hơn. Mẹ tôi dạy Đồng Khánh.
Bố tôi về Quảng Trị, tức là vợ một nơi, chồng một ngả.
Sáng sớm tinh sương, thành phố Huế như có sương mù. Bà ngoại tôi lặn lội về làng đem lên những đòn chả Huế. Bà
ngoại tôi, Quế Hương, pháp danh Tịnh Tâm, là người phụ nữ làm chả Huế, chả tôm
ngon nhất thế giới. Tôi vẫn nhớ hình ảnh bà xương xương, đội nón bài thơ, mặc
áo dài vân nhung (phụ nữ Huế của thời đại tôi biết không bước ra khỏi nhà mà
không mặc áo dài.) Trời tờ mờ sáng, bà đã hiện ra ở cửa nhà tôi, tay xách cái
giỏ thật lớn, đựng không biết bao nhiêu là đòn chả. Mẹ tôi lặng lẽ gói từng đòn
chả để bố tôi đem đi tặng đồng nghiệp mới ở Quảng Trị.
“Ở Quảng Trị cũng có học trò,” bố tôi nói. Bố tôi đó, con người của giáo khoa
thư! Ông tỉnh táo, yên phận, “lành như Bụt” đối với người đời (chỉ khó khăn với
người trong nhà mà thôi), ông vui vẻ mà đi Quảng Trị nhận công vụ, không phàn
nàn than thở. Theo lời mẹ tôi kể, thì ông đi nhận việc rất đúng giờ. Ông đi
cùng với những đòn chả Huế mẹ tôi gói rất cẩn thận đem cho đồng nghiệp. Ông còn
đem phòng thêm nhiều đòn chả nữa để cho học trò mới, có đứa nào ngoan, học giỏi
thì cho nó đòn chả lấy tình.
Ôi tình nghĩa giáo khoa thư!
Lần này ông đi không có chiếc phong cầm.
(Mãi về sau khi khôn lớn, tôi mới biết người đã đem bố tôi ra khỏi Quảng Trị
(để bố mẹ tôi được trùng phùng) là giáo sư Trần, thời gian ông làm Tổng Trưởng
Bộ Giáo Dục Đệ Nhị Cộng Hòa. Mẹ tôi nói gia đình tôi phải biết nhớ ơn bạn bè, đồng nghiệp cuả bố tôi, trong đó có bác Trần. (Nhớ ơn là “tiết mục” văn hóa giáo khoa thư! Chứ ở Mỹ, tôi không rõ trong số
đồng nghiệp tôi, ai là kẻ nhớ ơn Goldman Sachs.).)
Từ đó, khi chiếc phong cầm đã chết, bố tôi đi Quảng Trị, thì tôi
lại trở về làm đứa trẻ con quây quần bên ngoại, đứa trẻ con vắng bố.
Cuối năm 1963, con bé Hoài An lên sáu như già đi. Đầu óc non nớt đã lờ mờ hiểu
thế nào là sự sụp đổ của một chế độ. Khi chế độ sụp đổ, có thể có súng ống, có
lửa cháy, có tan cửa tan nhà, có người phải đi trốn chạy như chú M. đi trốn
trong chùa, có ảnh, với hình, với tượng đá, với đồ treo bị đem ra đập bỏ, xé
tan. Có những sự mất mát tận gốc rễ tâm hồn như cái chết của chiếc phong cầm
sau ngày lửa cháy. Và tôi lờ mờ hiểu rằng, ở chế độ nào đi nữa, con người cũng
có thể hại nhau…Trong rủi có may, trong may có rủi. Như việc bố tôi phải từ giã gia đình đi Quảng Trị.
Cái mà chúng
ta phải xây dựng là một nơi chốn cho chúng ta cơ hội để đi tìm sự công bằng
tương đối….
____
Mười hai năm sau, 1975, tất cả những điều mà tôi nhận thấy ngày lên sáu tôi vừa
liệt kê cho độc giả trên đây đã xẩy ra, lập lại. Như cộng nghiệp của một nơi
chốn, một đám đông. Cái định mệnh của tôi. Một cá nhân nhỏ bé bị cuốn trôi vào
dòng lịch sử.
Tôi hiểu thấu đáo. Hiểu nhiều quá đến nỗi mắt tôi ướt và tôi
nhói ở tim. Chúng tôi, tất cả chúng ta, cũng như cái phong cầm. Trôi nổi theo
bàn tay bố tôi rồi chôn thân ở nhà chú M. theo lửa cháy. Người Mỹ nói là, “be
in the wrong place, at the wrong time.” Chiếc phong cầm nằm sai chỗ, ở sai lúc.
Đôi khi tôi phân vân tự hỏi, nếu tôi không là người Việt sinh trưởng ở miền
Nam, và nếu tôi không là một trong mấy trăm ngàn người Việt di tản đầu tiên đến
Mỹ, thì định mệnh của tôi thế nào? Như chiếc phong cầm, tôi là kẻ sinh sai chỗ,
ở sai nơi, hay là người may mắn, ở đúng chỗ, nằm đúng nơi?
Tất cả, trong vòng quay của lịch sử, chỉ là tương đối.
____
Khoảng một tháng trước ngày Saigon sụp đổ, chú M. chạy ở Huế
vào, có ghé thăm bố mẹ tôi nhưng ông bà không có nhà. Chú cháu tôi nấu ăn với
nhau rất vui vẻ. Có ngờ đó là lúc chia tay.
Sau khi sang Mỹ, bố tôi vẫn nhắc những người bạn cũ. Ông rất ân hận đã không gặp được
chú M. trước khi di tản. Bao nhiêu năm ở Mỹ, thỉnh thoảng trong bữa ăn, bố tôi
vẫn nhắc đến chú M. Ông không hề nhắc tới chiếc phong cầm.
Đến năm 1995 thì có tin chú M. qua Mỹ, sau khi đã đi tù cải tạo rồi lập lại
cuộc đời. Chú ghé thăm bố mẹ tôi ở Texas, tôi không gặp vì tôi ở xa. Mẹ tôi bảo
lúc nào chú cũng tự tin, yêu đời, ở hoàn cảnh nào cũng có thể thành công hết.
Khi viết những dòng này, tôi vẫn chưa gặp lại chú. Không biết chú có nhớ chuyện
chiếc phong cầm của bố tôi?
Bây giờ, trong những tháng ngày về già, sắp từ giã nghề dạy học để về hưu, bố
tôi có lẽ không có những người bạn văn nghệ như chú M. nữa. Ông hay nhắc tới những người học trò cũ trường Trần Quý Cáp. Chắc đó là một
khoảng đời đẹp trong nghề dạy học của bố tôi.
Trong những ngày đã rời Goldman Sachs, có lần tôi mang bố mẹ đi mua sắm. Gặp
một thương gia chủ cửa hàng cũng là học trò cũ của bố tôi ở quận học chánh
Houston. Vị thương gia tay bắt mặt mừng, bảo rằng khách thường thì lấy giá X,
khách đặc biệt sẽ giảm giá tối đa, giá Z. Còn thầy học thì bớt 10 phần trăm,
tức là giá Y, giá “ở giữa.” Vì bố tôi là thầy dạy, ông được hưởng giá giảm hạng
vừa, hạng “ở giữa.”
Một lần khác nằm trên ghế dài, tôi thấy bố tôi ở trên lầu đi đọc cuốn sách của
một nhà văn Việt Nam, ông P.X.Đ., sách viết về Hà Nội. Tôi nhắc đến tên ông.
Mắt bố tôi sáng lên: “Anh ấy cũng đi tù cải tạo nhiều năm như chú M. đấỵ.”
Tôi
thắc mắc mãi về câu bố tôi nói, và ánh mắt sáng của ông. Tại sao mắt bố tôi
không sáng lên khi gặp người thương gia Mỹ giàu sụ vì nghĩ đến thầy mà bớt giá
10 phần trăm? Tại sao ánh mắt ấy chỉ sáng lên khi nhắc tới tên một nhà văn Việt
Nam? Chẳng lẽ bố tôi chỉ thương xót học trò người Việt đã phải sống qua thảm trạng Việt Nam? Cũng như tại sao bố tôi chán việc dạy học ở Mỹ, mà vẫn làm giáo
sư gương mẫu, không bỏ lớp, không trễ nải bao giờ? Ông vẫn cắm cúi soạn bài, tô
kẻ chữ làm bảng hiệu cho lũ học sinh non dại. Nói theo kiểu đùa của em gái tôi,
bố tôi chăm chỉ vì sợ bị người Mỹ cười nếu ông trể nãi! Sự việc không thể giản
dị như thế. Tôi thắc mắc mà không nghĩ ra được câu trả lời, bên tai vẫn nghe
văng vẳng tiếng phong cầm của bố tôi.
Chao ơi! Tiếng phong cầm của bố tôi!
Tháng ba năm 1996, ông nội tôi mất. Cụ Tổng Nho cuả tỉnh Sơn Tây đã nằm xuống. Trước mặt con
cháu, bố tôi khóc cha mà than mình không làm được gì cho đất nước.
Theo lời bố tôi, ông nội tôi đã làm đường gạch cho làng trong thời kỳ ông làm
việc xã. Nhìn bố tôi đứng khóc cha, tôi rùng mình nghĩ đến một ngày nào đó, tôi
cũng phải khóc cha mẹ như bố tôi đã khóc thương ông tôi.
Tôi tự thôi thúc, giục
giã, và biết mình phải làm gì ngay bây giờ.
Việc đầu tiên, tôi sẽ đi mua tặng bố tôi một chiếc phong cầm,
cho dù ông không còn tha thiết với đàn, và bố con tôi không còn nói chuyện với
nhau qua tiếng đàn như hồi tôi còn thơ ấụ.
Việc thứ nhì, tôi sẽ tìm mua cho được cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tiếng Việt. Tôi sẽ chậm
rãi mà đọc. Tôi đã khước từ nghề giáọ. Để giờ phút này, tôi hiểu rõ và tự quay
về với bản chất của mình. Tôi với bố tôi trong căn bản như nhạu. Dù muốn hay
không, tôi vẫn là sản phẩm của quốc văn giáo khoa thự. Mà đã là quốc văn
giáo khoa thư thì tôi không thể là Goldman Sachs.
Việc thứ ba, tôi ngồi xuống trước máy vi tính. Và tôi bắt đầu viết. Những ngón tay không còn cho phím trắng dương cầm sẽ gõ ra những con chữ: Không xây được đường làng, tôi xin xây lòng nhân ái con người qua lời tôi viết. Tôi trí mọn tài hèn, nhưng muốn những lời tôi viết làm cho độc giả tôi ngậm ngùi đủ mà nhỏ nước mắt cho nhau. Khi có giọt nước mắt thật sự, là có lòng thương, mà có lòng thương là hết khoảng cách. Khi tôi cầm bút mà nhỏ nước mắt, giữa tôi với độc giả sẽ không cón khoảng cách.
Tôi viết, vì tôi mãi mãi nhung nhớ, và muốn giữ mãi trong lòng, vẻ đẹp và vẻ sáng, từ chiếc phong cầm của bố tôi.
###
POSTCRIPT (lời chú của người viết hồi ký):
Có lần được đồng bào tôi mời diễn thuyết ở bên Úc ̣thập niên 1990), tôi bày tỏ rằng thế hệ di dân của tôi giống như những con người cá, nửa người nửa cá. Nghĩ lại, tôi thấy mình rởm ơi là rởm. Chẳng có vật thể nào gọi là người cá. Đó là sự tưởng tượng của những người thủy thủ lênh đênh trên biển cả. Khi mất đầu cá, mọc lên đầu người là có sự mất mát. Khi đôi chân người biến mất đổi dạng thành đuôi cá là có sự mất mát. Phải có sự mất mát, mới nảy mầm cái mới, cho dù cái mới đôi khi chẳng giống ai. Ông tôi nằm xuống, đó là sự mất mát phải có, và thế hệ sau của chúng tôi lớn lên.
Và tôi cũng xin các diễn giả đừng đãi bôi về cái gọi là khoảng cách thế hệ. Người Việt già và người Việt trẻ cách biệt nhau. Rồi đổ vào khoảng cách thế hệ. Khi tôi thương yêu bố mẹ, thì chẳng có vấn đề khoảng cách thế hệ.
Cho nên tôi viết về chiếc phong cầm của bố tôi. Một vật vô tri bị lôi cuốn vào dòng lịch sử. Sau ba mươi tư năm tôi hiểu được phần nào cuộc đời bố tôi, và vì mẹ tôi theo ông như một cái bóng, cho nên khi ông mất mát thì mẹ tôi chịu đựng.
Tuy nhiên, tôi cần thanh minh với độc giả. Những lời tôi kể đây không phải là lời viết về bố tôi. Vì bố tôi chỉ là một con người, có cái yếu, có cái mạnh, một người đàn ông đào tạo bởi văn hóa và thời đại của mình, với tất cả nghi hoặc, đam mê, sâu xé của một kiếp người, như ông đã viết về con lừa kéo gỗ, về cuộc đập phá khi nghệ sĩ và môi trường cấu xé lẫn nhau. Nếu tôi viết về bố tôi, tôi phải viết về một con người, với đủ bề mặt tốt xấu của người đó. Người con không thể làm việc phân tích hay phân trần này về cha cuả mình.
Tôi cũng không muốn như Maxine Hong Kingston, khi viết xong cuốn tiểu thuyết là gia đình và cộng đồng từ bỏ. Cái giá của sự thật khi cầm bút có lúc nặng hơn cái chết. Và đi tìm sự thật là một trọng trách khó khăn hơn đi làm lịch sử. (Cái đau khổ của nhân loại trước Thượng đế là đôi khi kẻ vụ lợi, xu thời, đồ tể, buôn thịt, bán xương, đều có thể làm thành lịch sử).
Tôi không có khả năng hay tham vọng bưng vác trọng trách đi tìm sự thật bằng ngòi viết hay viết nên lịch sử. Tôi chỉ xin viết về một vật thể vô tri, tượng trưng cho cái đẹp, nếu không có bàn tay nghệ sĩ, chỉ nằm yên như một đồ vật trang sức. Nhưng khi lửa cháy ngùn ngụt, thì vật vô tri cũng quay cuồng theo định mệnh như con người. Để giết một tổng thống, chiếc phong cầm vô tên tuổi, vô tội vạ, phi chính trị của bố tôi cũng bị giết theo, chỉ vì nó nằm không đúng chỗ.
Tôi chỉ xin viết về cách tôi nhìn vật thể đó, qua tình thương yêu cuả bố con t̀ôi.
Tôi viết cho ai, hay viết cho mình, điều đó không quan hệ. Điều ao ước độc nhất của tôi là ngòi bút của mình luôn luôn đi theo vẻ đẹp và vẻ sáng trong cuộc đời ảm đạm của kiếp lưu đày. Cái trắng trợn văng tục của realism, tôi xin nhường cho những người viết văn tục tĩu và dữ tợn. Sự tàn bạo của họ làm tôi kinh ngạc và kinh sợ. Trên cuộc hành trình văn chương họ đi từ điểm A tới điểm B bằng ngôn ngữ rổn rảng cay độc, bằng sự phá sản tâm linh, và. đối vói những kẻ viết khơi khơi vào tình dục chỉ để mà viết cho có tiếng vang, họ dùng ngay thân xác phụ nữ như một công cụ câu khách hoặc để làm dáng như thể mình đang làm cách mạng cho nữ quyền, một cuộc cách mạng mà phụ nữ Tây Phương đã làm trước, đã làm cũ, đã làm trâng tráo, và đã làm thất bại và thoái hoá!
Thật tình tôi không có tham vọng đi từ điểm A tới điểm B theo đường lối ấy, qua trò chơi kiểu cách văn chương. Đồng thời tôi không tin tâm linh có thể phá sản, ngay cả trong ngục tù, cuồng tín, và đói rách. Vì tôi là kẻ hay mơ, tôi tin rằng cái đẹp và vẻ sáng sẽ thay Thượng đế bảo vệ con người. Và tôi cũng không muốn đi đến một nơi chốn nào bằng cái vòng xe đặt trên điển hình xác thân mục rưả, hay đem cái nhục nhã, hèn mạt của phận người ra làm dụng cụ văn chương.
Tôi viết, vì tôi muốn đi tìm lại cho chính tôi (và cho bố mẹ tôi, những nhà giáo tị nạn dạy văn chương) hình ảnh Chim Hót Trong Lồng, Những Vì Sao Của Diệu, Mối Tình Chân, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều, Con Sáo Của Em Tôi, vân vân. Những cái đẹp đã mất của một thời đã qua và sẽ chìm vào quên lãng.
Tôi viết vì sau khi đã đi nửa cuộc đời, tôi cảm thấy mình không phải là Goldman Sachs.
Tôi cũng chẳng có vinh dự hay bất hạnh mang gông cùm cuả Karl Marx, Engels, hay bất cứ triết gia nào. Tôi chỉ biết mình là một chút gì sót lại của linh hồn văn hóa giáo khoa thư. Tôi sinh ra là Trần Thị Như Hội An, đổi thành Trần Thị Như Hoài An vì bà mẹ nhân từ nhưng hơi mê tín của tôi không muốn con gái mang vào người gánh nặng nào cả vì cái tên có dấu nặng. Tôi con gái đầu lòng nhà giáo Trần Quốc Ngữ, và cháu nội cụ Tổng Làng Bún Trần Quốc Nho. Tôi là một người đàn bà vì định mệnh mà nói tiếng Việt tự nhiên phải chen chút tiếng Tây Parisien, thêm tiếng Mỹ vùng MidWest (như độc giả đã thấy ở đây), đứa con gái nhậy cảm của một nhà giáo vô danh gốc gác từ lúa gạo đồng bằng Việt Bắc, đã từng là chủ nhân một chiếc phong cầm xấu số cũng vô danh nốt.
Như tôi đã nói, và nhắc lại cho chính mình, cho tuổi thơ, cho bố tôi, và cho những mảnh linh hồn tình nghĩa giáo khoa thư còn sót lại cuả một thời đã qua: Tôi viết, vì tôi mãi mãi nhung nhớ, và muốn giữ mãi trong lòng, vẻ đẹp và vẻ sáng, từ chiếc phong cầm của bố tôi.
Người viết hồi ký:
Trần Thị Như Hoài An
1996
----
Dương Như Nguyện copyright 1995, 1997, 2019
English version, a novella: My Father's Accordion -- Memoir of a Vietnamese Daughter
Ghi chú:
(*) Goldman Sachs là tên một cơ quan kinh tài
thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ.
(**) Trích từ bàì hát " "Biết Đâu Nguồn Cội" cuả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Tôi vui chơi giữa đời (ối a) biết đâu nguồn cội
Cây trưa thu bóng dài, và tôi thu bóng tôi
Tôi vui chơi giữa đời (ối a) biết đâu nguồn cội
Tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời.
(**́*) Trích từ bài nhận định tranh trừu tượng cuả Đinh Cường, cuả Giáo Sư Dương Đức Nhự (1934-2019) đăng trong một tập san văn học miề̉n nam Việ̉t Nam, thập niên 1960, đăng lại trong tuyển tập "Dích Việt Anh" cuả soạn giả Dương Đức Nhự, sách giáo khoa cho sinh viên Đại Học Văn Khoa Saigon, trước 1975.
(****) "Đỗ Xâm Hường" là món cờ bạc dành vào dịp Tết cho các gia đình trung lưu xứ Huế, dùng những thẻ làm bằng ngà voi có tô các điểm son hoặc chữ Hán viết bằng mực Tàu màu đỏ ̣(ý nghiã cuả chữ Hường, tượng trưng cho sự may mắn ngày xuân).
(*****) Trích từ thơ Alphonse de Lamartine ̣(1790-1869): "Milly ou la terre natale":
Chaumière où du foyer étincelait la flamme,
Toit que le pèlerin aimait à voir fumer,
Objets inanimés, avez-vous donc une âme
Qui s'attache à notre âme et la force d'aimer ?...
Dương Như Nguyện copyright 1995, 1997, 2019
bản tiếng Anh: A novella: "My Father's Accordion, Memoir of a Vietnamese Daughter"
dedicated to the soul of my father, Dr. Dương Đức Nhự
No comments:
Post a Comment