DAUGHTERS OF THE RIVER HUONG
A WAY HOMEWARD
By Dr. Linh Chan Brown, Ph.D. Linguistics,
University of Colorado
2) DI` SA^M, CON GA'I CU?A CA'CH MA.NG
Người đàn bà đẹp đầu tiên mà tôi được gặp chính là mẹ tôi. Dân làng Quỳnh Anh gọi bà là Công Chúa Quế. Những người bán tơ lụa gọi bà là Mệ Quế. Còn tôi gọi bà là Mạ.
Trong nhà tôi toàn là đàn bà, không có người đàn ông nào cả. Mạ có bao nhiêu là người làm, tất cả đều do Vú Mai cai quản. Họ bao quanh Mạ, như một thành lũy, cung phụng cho tất cả các nhu cầu của Mạ, thể như bảo vệ bà. Nhưng, sau lưng Mạ, đám người làm vốn hay ngôi lê đôi mách, kể cho tôi những mẩu chuyện bâng quơ. Tỷ dụ như có lần họ đã bác bỏ chuyện các lái buôn đã tâng bốc sắc đẹp của Mạ. Ngay cả Vú Mai cũng đồng ý với họ là Mạ chưa đẹp bằng chính bà ngoại Huyền Phi. Hoặc chưa bằng cả Dì Sâm, người em sinh đôi của Mạ.
Một hôm Vú Mai bảo tôi, “Không hiểu vì răng mà Mạ mi lại kể những chuyện tào lao như rứa.”
Khi tôi nhắc lời Vú Mai cho Mạ nghe, Mạ kêu Vú Mai tới và tát vào mặt Vú.
Vú Mai bật khóc và xin lỗi rối rít. Nhìn thấy vết bầm đỏ trên má Vú Mai, Mạ quỳ xuống và xin lỗi Vú, tạ̣ lỗi với người đã nuôi nấng cả Mạ và tôi. Nhìn Mạ quỳ trên sàn, Vú Mai sững sờ, vội vàng bảo tôi là tôi phải quên đi những lời vớ vẩn của Vú, và Vú xin lỗi đã làm tôi băn khoăn, khẳng định lại dì tôi quả là một nữ chiến sĩ cưỡi voi như Bà Triệu. Tôi nhìn hai người lớn, vừa ngạc nhiên vừa lấy làm thích thú. Ngay lúc đó, tôi tự nhiên nhận ra rằng không những Mạ có sắc đẹp mà người còn có một tài đóng kịch xuất chúng.
Mặc dù trong nhà có rất nhiều đầy tớ, có những việc Mạ nhất định tự làm lấy. Chẳng hạn như chăm nom bàn thờ.
Trong phòng bầy bàn thờ là nơi ba tôi, thể hiện bằng bức ảnh đen trắng, ngự trị, cùng với ông tôi, Hồng Lộ Tự Khanh kiêm chiêm tinh gia triều Nguyễn, và Đô Đốc Nguyễn Tùng, bố nuôi của Mạ. Họ sống trong một dãy ảnh đen trắng lồng khung gỗ hồng chạm trổ mà Mạ lau chùi bóng loáng bằng nước chanh.
Tất cả các bức ảnh và tranh lụa đều được trưng bày phía dưới ảnh ông ngoại tôi, Vua Thuận Thành xứ An Nam, chụp khi ngài lên ngôi. Sau này tôi khám phá ra rằng chính tấm hình này đã đi vào những cuốn sách sử. Ông ngoại tôi đã trở thành một huyền thoại trong lịch sử Việt Nam, một vị vua chống Pháp bị lưu đày, được bao nhiêu thế hệ những nhân tài ái quốc trọng vọng. Nhưng trong căn phòng thờ cúng đầy hương khói đó, vị vua là ông ngoại của tôi đó trông chẳng lớn tuổi hơn tôi bao nhiêu. Trông ông ngoại không đẹp trai mà cũng chẳng thông minh chút nào, chỉ là một cậu bé ăn mặc cầu kỳ. Nhưng dù sao ông cũng là một người có thật. Trong khi đó người vợ quá cố của ông, bà ngoại Huyền Phi, lại chỉ là một bức tranh lụa. Không có tấm hình nào của bà ở đâu cả. Trong tranh, trông bà huyền ảo, và tôi không thể tưởng tượng được khuôn mặt thật của bà ra sao.
Một thời gian khá lâu sau, tôi lên 16 và sửa soạn theo học trường nội trú Pháp trên Cao Nguyên. Đây là một cuộc dàn xếp phức tạp và tốn kém mà Mạ tôi đã phải phí nhiều công sức mới cáng đáng nổi, bởi vì không phải người con gái nào cũng có thể xin được vào đó học. Trước khi đi, tôi hỏi Mạ là bà có thương yêu ba tôi không. Bà nhìn tôi như thể câu hỏi của tôi hoàn toàn không phải phép, như thể là tư tưởng đó không bao giờ được thổ lộ.
Tôi không nhớ rõ lần đầu tiên Mạ đưa tôi tới trước bàn thờ là vào thời gian nào và Mạ đã tập cho tôi nhìn nhận biết mặt biết tên tất cả những nhân vật đã chết đó, kể cả ba tôi nữa. Khi đám trẻ tôi thường cùng chơi đùa hỏi là ba tôi ở đâu thì tôi tự động trả lời là ông đang ở trên bàn thờ.
Mạ thường thắp hương hằng ngày và đặt cúng rất nhiều hoa quả tươi. Hương linh người chết chỉ hưởng thụ hoa quả một cách tượng trưng mà thôi, nhưng tôi thích ăn tất cả những trái còn tươi mỗi lần Mạ thay khay trái cây mới.
Trên bàn thờ là hai khung ảnh gỗ hồng còn để trống. Mạ để dành hai khung đó cho Dì Sâm và Cậu Lâm. Người cũng đánh bóng hai khung ảnh còn trống đó như là bà đã đánh bóng các tấm ảnh của những người đàn ông đã chết. Bà nói em gái và em trai của bà đã đi khỏi nhà. Một ngày nào đó họ sẽ trở về, hoặc sẽ biến thành những vong linh nối gót tổ tiên trên bàn thờ.
“Tại sao mấy người lại bỏ đi?” Tôi hỏi.
Mạ kéo tôi vào lòng và thì thầm kể chuyện. Một hôm có một chiếc máy bay bay lượn trên làng Quỳnh Anh, và một cô gái làng, bạn của Dì Sâm, khi đó đã lấy ra một chiếc gương nhỏ mà cô luôn đem theo trong túi áo. Lính Pháp tưởng là cô định dùng gương để ra hiệu cho kháng chiến chống Pháp bắn rơi máy bay. Thế là lính Pháp bắn chết cô gái làng. Dì Sâm chứng kiến rõ ràng. Dì tức điên lên. Rồi dì bỏ nhà ra đi để bảo đảm là không bao giờ có cô gái thơ ngây nào bị bắn nữa.
Cậu Lâm thì khác, cậu bỏ nhà ra đi vì một lý do hoàn toàn khác. Cậu lớn lên không chỉ có mẹ là Huyền Phi nuôi nấng, mà còn nhờ bố nuôi, Đô đốc Nguyễn Tùng, nữa. Khi Cậu mới tám tuổi thì Đô Đốc qua đời. Nhiều năm trôi qua, sau một trận lũ lụt dữ dội tàn phá làng Quỳnh Anh, gia đình phải rời hài cốt của Đô Đốc tới một nghĩa trang khác. Hài cốt Đô Đốc được bốc lên và cậu bé Lâm được phép ôm đầu lâu của bố nuôi. Lúc đó có một cái gì thiêng liêng len vào tâm linh cậu, và cậu quyết định ngay khi ấy. Cậu viết giấy từ biệt để lại cho bà ngoại và Mạ, nói rằng cậu sẽ đi theo Dì Sâm về miền bắc. Cậu còn muốn qua Nhật Bản để học hỏi kinh nghiệm về việc kỹ nghệ hóa. Cả cha ruột và bố nuôi của cậu chắc đều muốn như vậy, cậu viết.
Đó là vào năm 1925. Cậu Lâm vừa mới 15 tuổi.
“Trông dì với cậu ra sao?” Tôi hỏi Mạ.
“Giống như Bà Triệu và nhà ái quốc Thái Học.”
Tưởng tượng ra Bà Triệu như thế nào thì thật dễ cho cô bé Sương, là tôi, bởi vì ngay cả những cô người làm mù chữ cũng biết nói chuyện về người phụ nữ mặc áo giáp vàng. Nhưng đối với nhà ái quốc Thái Học thì không phải là dễ.
Trong đầu Mạ nảy ngay ra một ý định sau khi nghe tôi hỏi bà hôm đó. Bà bỗng nhiên đem tôi ra khỏi trường tiểu học Pháp và ghi danh cho tôi vào trường Nữ học Đồng Khánh. Tôi phải thi nhập học trước, và tôi nhớ mang máng là tôi làm bài thi dở lắm. Mấy cô người làm trong nhà thì thào rằng con gái bà chủ giàu nhất xứ Huế thì muốn vào đâu mà chẳng được! Trên bực thềm trường Nữ học Đồng Khánh xây bằng gạch đỏ, một nhóm học sinh vào học trước tôi đã cho tôi coi tờ truyền đơn có in hình Nguyễn Thái Học, nhà ái quốc. Đó là lần đầu tiên tôi có một khái niệm về Cậu Lâm. Hình trên tờ truyền đơn là một người đàn ông tóc ngắn, mặt vuông chữ điền, có ria mép tỉa ngắn gọn và lông mày rậm, nét mặt nghiêm nghị. Không giống Napoléon chút nào, nhưng cũng có một cái gì rất lôi cuốn.
Tụi học sinh kể rằng nhà Ái Quốc Nguyễn Thái Học đã cầm đầu một cuộc cách mạng và bỏ mình vì nước vào năm 26 tuổi dưới lưỡi dao ghi-lô-tin của Pháp trước khi tôi ra đời. Trước khi chết ông có nói một câu gì đó, hàm ý là “Nếu một người đàn ông không đạt được thành công, thì ít nhất cũng sẽ trở thành con người huyền thoại. (“Không thành công thì cũng thành nhân”). Nhà Ái Quốc Nguyễn Thái Học chết, cho nên ông đã trở thành một huyền thoại. Là huyền thoại có nghĩa là chết. Chết là điều xảy ra cho người nào dẫn đầu một cuộc cách mạng mà không thành công. Người thành công thì còn được sống.
Mạ nói hoa mộc lan trắng làm Mạ nhớ tới dì Sâm. Khi còn bé, dì Sâm thường ngắt hoa đem áp vào má dì. Dì nghiêng đầu và giả đò là đang chụp hình như một minh tinh màn ảnh Tây phương. Cánh hoa trắng ngần làm nổi màu da non mịn. Rồi dì lại đặt bông hoa áp vào má Huyền Phi để so sánh. Hai mạ con lại cười nắc nẻ, rồi dì Sâm lại ném bông hoa qua cho Mạ, bảo Mạ cũng làm như dì. Nhưng Mạ thường không chịu làm theo, để làm cho dì tức. Mạ gọi dì là người ném hoa. Mạ nói có khi người ném hoa liếm những giọt sương mới đọng trên những cánh hoa trắng.
Tôi mang ơn người dì vắng mặt của tôi vì đã đặt cho tôi cái tên đẹp quá, và chuyện dì cưỡi voi cũng làm tôi mê mẩn. Nhưng tôi chẳng hiểu được tại sao dì lại đi ném những bông hoa mộc lan trắng như người ta ném những trái banh ten-nít. Chắc dì có tính hơi ác độc nên mới xử sự hung bạo với những đóa hoa kia.
Những bông hoa to sụ nằm nhẹ trên bàn tay, những cánh hoa trắng ngà, bày gọn trong tô súp đủ lớn để cho năm người ăn. Mạ thường đặt cái tô kiểng trong mờ hai màu xanh trắng ngoài hiên để hứng nước mưa. Mỗi ngày bà lại ngắt một bông hoa tươi, lấy kéo cắt cọng sần sùi đi, rồi thả hoa trong tô nước và đem đặt lên bàn thờ gỗ hồng. Hương thơm phảng phất khắp gian phòng, quyện vào màn ren và vào các đồ gỗ sậm màu bóng loáng vì nước chanh.
Tôi cũng đã tưởng tượng hoa sẽ biến thành khuôn mặt một người đàn bà, màu da trắng mịn màng như màu mộc lan, lông mày vẽ xếch lên như hai vết mực đen, như đã được gìn giữ trong tranh lụa ở phòng thờ. Người đàn bà trong tranh là biểu tượng bà ngoại tôi, Huyền Phi của Tử Cấm Thành, tựa là Thành Phố Tím, bà chúa trong gia đình tôi, một gia đình chỉ toàn là đàn bà, không còn một người đàn ông nào sống sót. Đã nhiều thế hệ, Mạ bảo, đàn bà con gái trong gia đình tôi ràng buộc với nhau cũng là qua người đàn bà vắng mặt chỉ hiện hữu trong bức tranh lụa mà thôi: Huyền Phi, người đàn bà đã biến thành linh hồn của dòng Hương Giang.
Tôi tưởng tượng rằng người đàn bà ấy sẽ biến thành một luồng khí mảnh dẻ bay lượn nhẹ nhàng từ tranh lụa sang chiếc tô sứ, rồi trở thành đóa mộc lan nổi bập bềnh trên vũng nước mưa có hương vị như giọt sương buổi sớm đọng trên cửa kính sau bức màn ren. Rồi như một làn khói, nàng sẽ uốn mình trườn ra khỏi tô sứ, làn tóc mây tỏa bồng bềnh phía sau. Cũng như Mạ, nàng mặc áo lụa trắng, thứ lụa mềm mịn sang trọng như những cánh hoa trắng phủ đầy sân trước.
Trong phòng thờ tối, tôi tưởng tượng bà ngoại sẽ bay lướt qua không gian, đôi chân không đi hài lơ lửng không đụng tới sàn đá hoa. Có khi cả ba người ông của tôi cũng sống dậy, bước ra khỏi khung ảnh đen trắng của họ. Ông vua nhỏ sẽ giật tay áo tôi, thúc giục tôi phải vái người. Hai ông già, ông nội và ông ngoại nuôi, đến gần tôi đặt bàn tay khô héo của họ lên trán tôi, bàn tay có móng dài cong quết qua thái dương tôi khiến tôi có cảm giác như đụng vào một cây que bằng tre khô.
Thế rồi tôi ngất xỉu.
Dĩ nhiên là Mạ chẳng biết gì về những cơn mộng tưởng của tôi. Bà sẽ cho tôi là đứa vô phép.
Sự sợ hãi và hồi hộp pha trộn với nhau làm tôi vừa thích thú vừa kinh sợ phòng thờ. Phần nhiều để tránh vào phòng thờ, tôi chơi đùa suốt ngày trong sân trước, say sưa với hương thơm ngạt ngào của những bông hoa trơn tựa như sáp. Hoa của tôi chứ không phải là những trái banh ten-nít của Dì
Sâm.
Nhưng chẳng bao lâu, tôi khám phá ra rằng cũng như Dì Sâm, tôi cũng có nòi ác độc của riêng tôi.
Khi những cánh hoa trắng rơi rụng trên mặt đất ẩm, tôi nhặt chúng lên cho vào lẵng tre. Tôi có một cái xẻng nhỏ, và vào một buổi sáng, tôi cố trồng những cánh hoa kia vào luống hoa hình bán nguyệt dọc theo cửa sổ ngay dưới phòng ngủ của tôi.
Tôi muốn trồng cây mộc lan cho riêng tôi.
Khi đang hý hoáy trồng hoa, tôi không dè có lũ trùng khốn khổ tròi lên. Nhìn thấy chúng, tôi vứt xẻng đi và ù té chạy vào nhà. Những con vật nâu đỏ hình chiếc đũa, nhầy nhụa trông phát khiếp. Chúng có thể bò len qua kẽ tay. Tôi đã dùng xẻng cắt chúng làm đôi, mỗi nửa thân hình còn ngọ nguậy như cố bám lấy sự sống.
Tôi đã nhìn thấy những con trùng nửa sống nửa chết. Chụm hai bàn tay đầy đất bám, tôi nhìn trân trân vào lòng bàn tay mình. Một giọt nước mắt rớt xuống giữa hai bàn tay chúm lại với nhau. Tôi nhìn thấy rõ một vũng ao nhỏ trong lòng bàn tay, và vẫn còn hình dung được bóng hình của những sinh vật màu nâu đỏ cựa quậy trong tuyệt vọng. Ngay cả khi chết, chúng vẫn còn động đậy.
Tôi khóc vào vũng ao trong bàn tay vì tôi biết tôi đã giết chúng.
Vậy mà tôi vẫn cứ tiếp tục cố gắng trồng cái cây của tôi. Tôi đã bị ám ảnh với ý định đó mặc dù tôi biết là lúc trồng cái cây mơ ước của tôi, tôi đã sát sinh, và sẽ tiếp tục sát sinh.
́́***
Trong hai lần duy nhất tôi gặp Dì Sâm, tôi không có cơ hội hỏi người ném hoa mộc lan là tại sao dì đã làm như vậy. Điều gì đã thúc đẩy mà dì phải ngắt từng cánh hoa, cũng như vì lý do gì mà tôi đã phải đâm giết những con giun đất để thực hiện giấc mộng của mình?
Tôi gặp Dì Sâm lần đầu tiên vào một đêm mùa thu, nhưng bên ngoài trời đầy sương mù. Đó là vào ngày gần dịp Tết Trung Thu. Đáng lẽ đêm ấy phải là đêm trong sáng tròn trăng.
Ban ngày tôi đã ăn nhiều bánh ram và đến giữa đêm lạnh, tôi chợt tỉnh giấc hé nhìn giải trăng mùa thu qua cửa sổ. Tôi đang mãi lắng nghe bụng mình sôi sục, chỉ chú tâm đến vùng rốn của mình.
Trong đêm tĩnh mịch, tôi nhận ra cửa sổ phòng ngủ mở toang. Sương mù tràn vào phòng làm cho tôi thấy khó chịu. Tôi trở mình nằm sấp xuống và giấu mặt vào gối. Qua kẽ mắt, tôi ngước lên khung cửa sổ.
Mạ đang đứng bên ngoài cửa sổ tay xách đèn lồng, chăm chú nhìn tôi.
Mạ đứng lặng thinh, bộ điệu khác thường và ăn mặc thật lạ lùng. Bà mặc quần áo bà ba bằng vải, và đầu đội chiếc mũ thợ săn xấu xí mầu xanh lá cây. Cặp mắt đăm đăm nhìn tôi, như một người xa lạ. Tóc bà rẽ ngôi và kết hai bím thả hai bên, khuôn mặt lộ ra dưới vành mũ. Ánh đèn lồng lập lòe trong tay bà. Tôi nhận thấy bà không đeo vòng ngọc có trạm vàng, chiếc vòng đã được một sư cụ trên chùa ban phúc lành bằng nước cành dương.
Có cái gì không ổn. Mạ luôn luôn đeo vòng ngọc, ngay cả khi nằm ngủ. Tia nhìn cuả bà lần này sao mà chói chang ám ảnh lạ lùng làm tôi phải quay đi không dám nhìn. Tôi nhắm mắt lại.
Một nỗi kinh hoàng chợt ôm choàng lấy tôi.
Người đứng ngoài khung cửa sổ không phải là Mạ. Đó là một người lạ tôi chưa hề gặp. Người lạ có khuôn mặt như hệt Mạ.
Tôi ngất đi chắc phải vài phút. Khi tôi hoàn hồn, thì lại thấy lạnh gáy vì kinh hãi. Tôi mở mắt ra thì chỉ thấy khung cửa trống rỗng. Người đàn bà đã biến đi đâu mất.
Tôi nghe thấy có tiếng nói lao xao từ phía phòng thờ, liến thoắng và gay gắt. Tôi lắng tai, nghe ngóng. Mạ đang nói chuyện với một người đàn bà khác.
Trong phòng thờ có hai Mạ. Nhưng không, chỉ có một người là Mạ mà thôi. Mạ của tôi mặc quần áo lụa, mái tóc dài của người để xõa một bên, vòng ngọc trạm vàng đeo trên cổ tay, chân người đi dép nhung. Người đàn bà kia, giống Mạ như đúc, hoàn toàn biểu hiện cho những gì tôi không muốn là Mạ của tôi. Nếu Mạ là cây liễu thì người ấy là cọng tre. Trong bộ quần áo bà ba đen và chân đi dép cao-su, bà trông và hành động như một người nhà quê xấu tính, dáng dấp dữ dằn, đáng sợ quá. Và bà ta đang la lối Mạ tôi.
Tôi đẩy cửa phòng bước vào.
“Không được la lối với Mạ tôi, đồ con quỷ, làm cho tôi sợ chết khiếp ở cửa sổ lúc nãy!” Tôi hét vào mặt người đàn bà.
Hai bản cóp-pi của Mạ quay lại nhìn tôi cùng một lúc, cả hai trông ngượng ngạo như bị bắt quả tang đang ăn cắp vật gì.
́́́***
Đó là lần đầu tôi gặp người dì duy nhất của tôi. Dì Sâm đến và đi như một bóng ma, một giấc mộng, như làn gió thoảng, giữa đêm khuya và rạng đông, trong sương khói mịt mù. Tôi không biết là tôi thương dì hay ghét dì. Nhưng điều chắc chắn là dì đã làm cho Mạ phải nằn nì. Tuy nhiên tôi biết là lũ đầy tớ đã nói đúng. Dì Sâm đẹp thật, ngay cả khi dì mặc bộ quần áo vải thô đen, hôi hám, và đội chiếc mũ tức cười. Làn da ngăm ngăm màu hổ-phách-bánh-mật bóng bẩy như màu ánh đèn lồng dì cầm trong tay trước khi dì từ giã chúng tôi. Nhưng dì không thể nào đẹp bằng Mạ được. Dì chẳng bao giờ có dáng lả lướt như cành liễu. Mạ bảo trong cuộc hành trình muôn dặm của dì, dì có đi đâu chăng nữa thì rồi số phận dì cũng như các bà tiên, bà chúa của nước Việt.
Tôi giữ viên sỏi Dì Sâm cho trong một cái túi xa-tanh trước dùng để đựng chuỗi ngọc trai của Mạ, và từ bữa đó, tôi nhìn Dì Sâm với một con mắt khác xưa. Dì không còn là người cưỡi voi mà là một khách độc hành, đốn tre cắt củi phá đường mà đi, qua những ao lầy, trong gió lốc oi ả, qua những dòng suối ngoằn ngoèo đầy ếch vàng và cá hồi màu bạc. Đó là nơi dì nhặt những viên sỏi vàng cho tôi. Áo giáp của Bà Triệu vỡ vụn ra trăm mảnh, chìm sâu dưới nước và biến thành những viên đá nhẵn nhụi. Người nữ chiến sĩ với hai giải tóc bím, mặc quần áo đen, nhẩy từ chòm cây này sang cây khác như hổ báo, và lặn lội đầm sâu như loài cá sấu.
Ở một bình diện nào đó, tôi ước là Dì Sâm không khi nào trở lại lần thứ hai để tôi được tiếp tục nghĩ tới dì như một con hổ cái đen tuyền. Số mệnh của dì thuộc về số mệnh của những bà tiên bà chúa của Việt
Nhưng dì lại trở về một lần nữa. Và cũng là lần cuối cùng.
Ngày tháng trôi qua, và cuối cùng thì tôi cũng trở thành một cô thiếu nữ, ăn mừng sinh nhật 16 tuổi vào năm 1949. Mùa hạ năm đó, một cái điện tín từ Bắc Việt báo tin Dì Sâm sắp về. Đọc xong Mạ bật khóc nức nở, rồi cả nhà bỗng huyên náo vì Mạ sai đám người giúp việc sửa soạn nhà cửa. Cả mấy tuần sửa soạn, mong ngóng, và ngày ăn mừng đã tới. Mạ bảo mọi người rằng mặc dù Dì Sâm lại bị bắt một lần nữa, giam tại Hỏa Lò — cái nhà ngục khốn nạn ngoài bắc — nhưng nhờ sự can thiệp của cựu Toàn Quyền Đông Dương, Albert Sarraut, người theo chủ nghĩa tự do cấp tiến, Dì Sâm đã được nhà nước bảo hộ ân xá.
Người nữ chiến sĩ sẽ trở về để nghỉ ngơi.
Và vì Dì Sâm sắp về, vậy thì không bao lâu nữa cả nhà sẽ có tin Cậu Lâm, Mạ bảo vậy. Mắt người sáng lên, giọng nói cao thêm một nấc, và câu nọ xọ câu kia ríu rít, náo nức như một đứa trẻ thơ. Viễn tượng ba người con của Huyền Phi sẽ sum vầy với nhau tác dụng như một liều thuốc hoàn đồng đối với Mạ, làm cho người trở thành một người đàn bà mới lạ.
Còn tôi thì ngày nào cũng vẫn đi học đều. Học sinh trường Nữ học Đồng Khánh bàn tán về chuyện dì tôi được thả, xác nhận là quả thật dì tôi đã trở thành nổi danh như một huyền thoại sống. Hàng ngày tan trường về, tôi thấy mắt Mạ sáng long lanh, và cả nhà nhộn nhịp như ngày hội. Tiếng cười của Mạ văng vẳng khi người lăng xăng sai bảo đám đầu bếp và thợ may. Bà muốn mọi thứ phải thật hoàn hảo. Mấy tuần trôi qua như vậy, niềm vui của Mạ đầy quá và không gian rộn ràng quá.
Một hôm tôi đi học về thấy nhà cửa im lặng lạ thường. Đèn không thắp, và cả nhà chìm trong yên lặng tuyệt đối như thể hơi nóng của một vùng sa mạc vừa thổi qua.
Tôi vào nơi dành cho Dì Sâm thì thấy Mạ ngồi yên lặng một mình trong bóng tối. Đám người làm đã về khu dành riêng cho họ. Cánh cửa phòng Dì Sâm còn đang hé mở.
“Đừng vào đó, Sương. Dì con mới về, cần phải nghỉ ngơi,” Mạ lặng lẽ bảo tôi, như thể không còn chút sinh lực nào trong cơ thể người.
Tôi buông tay dì ra, bàng hoàng, trong khi Mạ gắng gượng dìu mảnh thân hình kỳ quái ấy vào nhà. Dì yếu ớt kháng cự, nhưng cũng đẩy được Mạ sang một bên.
Chân đi khập khiễng, bà già xé toạc áo bà ra. Trong ánh sáng mờ mờ của buổi hoàng hôn, tôi nhìn thấy những vết thẹo trên ngực bà. Cả hai núm vú đều không còn nữa. Tôi úp tay che mặt.
Người đàn bà hở ngực đang nghêu ngao những câu hát không ý nghĩa. “Mi có dạ con và cặp vú không?” Câu hỏi lặp đi lặp lại như một điệp khúc.
Mạ đã ra lệnh cấm không cho đám người làm vào phòng.
Đêm hôm đó tôi phụ Mạ mớm cho Dì Sâm ăn súp yến, rồi lau rửa cho dì trong bồn sứ, hai mẹ con lấy khăn thấm nước nóng lau cặp vú đầy vết sẹo và không núm của dì. Tôi vừa lau làn da sần sùi, vừa nghĩ tới sự mịn màng của cánh hoa mộc lan trắng. Nước mắt tôi nhỏ xuống vai dì, tôi lặng người đi, không thốt lên được một lời. Mạ âm thầm mím môi. Người không khóc.
Đêm hôm ấy tôi ngồi bên cửa sổ trong phòng ngủ nhìn ra phía cây mộc lan. Dì Sâm đang nghêu ngao hát câu hỏi như một con người đần độn.
Tôi thấy Mạ bước quanh sân trước dưới ánh trăng ứa ngập đầy sân. Bà đi quanh gốc mộc lan nhiều lần rồi cúi nhặt những bông hoa rụng đưa lên áp vào má. Rồi bà quẳng hoa vào thân cây mộc lan cao vút. Bà làm cử động này nhiều lần, trong khi tôi lặng nhìn những cánh hoa tả tơi rơi rụng xung quanh bà.
Tôi gọi Mạ và bà quay lại về phía cửa sổ tôi đang ngồi. Dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy mặt Mạ tôi. Khuôn mặt ràn rụa nước mắt.
Những ngày tháng sau đó, Mạ cấm hầu hết đám người giúp việc không cho vào nơi dì tôi nằm nghỉ. Chỉ có Vú Mai là người duy nhất chăm sóc dì mà thôi. Mạ và tôi viết hết lá thư này tới lá thư khác, và Mạ cũng bắt đầu làm những chuyến đi Sài gòn và Hà Nội để khiếu nại về tình trạng của dì tôi. Người liên lạc với báo chí, mướn thông dịch viên để sửa soạn giấy tờ gửi đi Ba Lê. Tôi chưa bao giờ thấy Mạ nôn nóng dữ như vậy.
Những khi Mạ vắng mặt vì những chuyến đi xa, tôi cắt những đóa hoa mộc lan và thả vào trong tô sứ. Tôi lau chùi những khung ảnh gỗ hồng bằng nước chanh và thắp nhang. Dì Sâm thường đi khập khiễng quanh nhà, miệng ngêu ngao lời hát quen thuộc của dì. Mỗi ngày dì cởi áo ít nhất một lần, phô trương tấm thân méo mó biến dạng, trên miệng hóm hém một nụ cười méo mó.
Ngày dì tôi trở về vào năm 1949, và thân hình biến dạng của dì đã khắc sâu một thảm trạng vào cuộc sống vốn yên lành và hoàn toàn được che chở của tôi. Tìm hiểu thảm trạng đó là ngưỡng cửa cho tôi bước vào dòng lịch sử sóng gió của Việt
Sau mùa hè năm 1949, tôi sống qua cuộc cách mạng và đi vào cuộc đời thành niên của tôi với ảo tưởng là được che chở bình an trong ngôi nhà và khoảng vườn đẹp đẽ của Mạ. Trong cảm giác mâu thuẫn về cuộc sống được bao che của tôi, tôi chứng kiến những ngày hấp hối của chủ nghĩa thực dân Pháp. Năm 1954, Việt Minh thắng trận. Với tôi, điều đó có nghĩa là những Dì Sâm, những cậu Lâm vắng mặt trên bàn thờ cuả Mạ đã thặ́́ng trận. Bị thảm bại ở Điện Biên Phủ, người Pháp buông thả Đông Dương, để nhường chỗ cho Hoa kỳ, Trung Hoa, và Nga Sô.
Rồi một cuộc chiến tranh nữa tiếp theo, cuộc chiến mà người ta nói là chiến tranh chống Mỹ; về phía tôi ở, bên này vỹ tuyến 17, là cuộc tự vệ cuả những người không cộng sản, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn đã làm cho Việt
Suốt mùa hè năm 1949, khi Dì Sâm còn đang ở với chúng tôi, trong nhà không ai nói năng gì nhiều. Trong bối cảnh buồn thảm đó, định mệnh đã làm cho tôi tin tưởng, một lần nữa, vào mối liên hệ giữa tôi và dì tôi với cây mộc lan của Mạ.
Số là một đêm kia, khi Mạ vắng nhà vì một chuyến vào Nam hay ra Bắc gì đó, đi tìm công lý trong vô vọng và tìm một tòa án để truy tố những người thực dân phạm tội ác với người em gái sinh đôi của bà.
Trong đêm hè ấy, tôi sực tỉnh dậy vì hơi nóng ùa vào từ bên ngoài. Tôi thấy cửa sổ mở ra, khuôn mặt đờ đẫn méo mó và đầy sẹo của dì Sâm hiện ra trong khung cửa. Mặt trăng treo lơ lửng sau lưng dì. Hình như dì đã thơ thẩn ra sân trước và đã đẩy cửa sổ phòng tôi. Dì đang chòng chọc nhìn tôi, tay dì xách chiếc đèn lồng, y hệt như lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau.
Dì nhìn tôi với cặp mắt như xoáy vào tâm tư tôi, vạch trần lời nói dối của tôi. Tôi bẽn lẽn nhìn xuống sàn nhà.
Dì tôi lấy tay bịt miệng tôi. Một tay dì nghẽn cổ họng tôi. Trong khoảnh khắc, tôi như tắc thở. Dì làm tôi ngộp thở. Hai dì cháu vật lộn một hồi, cho tới khi dì dịu cơn nóng, và chúng tôi cùng ngồi bệt xuống, thở dốc.
Con đã hứa với dì là con sẽ giữ bí mật rồi đó.”
***
Suốt đêm, tôi nghe thấy tiếng lục sục trong phòng dì tôi. Những tiếng động lạ lùng. Như có ai kéo bàn ghế, kê lại đồ đạc trong phòng, và có tiếng vải xé. Tôi nằm yên không nhúc nhích. Không làm gì cả. Qua ánh trăng bàng bạc ngoài cửa sổ, tôi nhìn thấy cây bạch mộc lan. Cứ như vậy cả giờ đồng hồ, rồi tôi thấy dì tôi khập khiễng lê chân ra sân trước. Không khác gì hình ảnh Mạ tôi trong đêm dì Sâm về. Đám người làm đều ở trong khu dành riêng cho họ và không ai làm gì để ngăn cản dì được.
“Áo giáp vàng của dì mô rồi, hở dì Sâm?” Tôi thì thầm qua khung cửa sổ.
́́́
***
Người dì khật khùng ốm yếu của tôi bỗng nhiên trở thành mạnh mẽ lạ thường, dì đang một mình khuân kéo bàn ghế ra sân. Dì cố chồng chất chúng lên nhau dưới gốc cây mộc lan. Chúng rơi đổ liểng xiểng, dì cũng té ngã mấy lần. Dì lại cố đứng dậy, khập khiễng lê lết quanh đám bàn ghế cho đến khi làm được việc dì muốn làm mới thôi. Thật ra, dì rất khéo léo và quả quyết. Dù sao thì dì cũng đã là nữ chiến sĩ theo đuổi giấc mơ Bà Triệu, là người đã nhặt viên sỏi quý dưới dòng suối gần biên giới Hoa-Việt mang về cho tôi, và dì không ngừng nghỉ cho đến khi bọn chúng đâm thọc dạ con và xẻo vú dì. Bây giờ dì đã nuốt chửng sự bí mật đó rồi, và muốn tôi đi theo dì.
Thế là tôi đi theo dì bằng cách ngắm nhìn dì qua cửa sổ phòng ngủ của tôi. Dì kéo chiếc màn ren ra sân, rồi leo lên đống bàn ghế và với tay lên thử một cành cây rắn chắc. Dì biết chọn cành cây khỏe nhất, như một người thợ lão luyện tinh đời.
Dù sao chăng nữa, dì tôi đã thật sự trở về với mái nhà xưa.
Tấm màn thêu mà người thợ may của Mạ đã khâu để sửa soạn cho ngày trở về của dì bay phất phơ quanh thân hình biến dạng của người đàn bà đang cố với nhánh cây mộc lan. Rồi chính dì trở thành bông hoa rơi, lửng lơ trên không, muôn đời, cho đến khi ánh trăng chiếu lên dì, và dì vút bay vào không gian.
Tôi hiểu ra là đã quá muộn. Tôi, người cháu tên Sương xinh đẹp của dì, ngồi bên cửa sổ ngắm dì. Cũng như lúc tôi ngắm nhìn những con giun quằn quại chết.
Không khí yên tịnh và mát rượi, dường như dì tôi đã đem sương mù trở lại.
Tôi tưởng tượng là mình đã mất hai núm vú, và lồng ngực chứa đầy những vết dao cắt, mường tượng cảm giác của mình khi những con dao găm chứa đầy hận thù đâm thủng vào lòng dạ con. Khi những dòng máu đỏ rớt xuống đất, chúng biến thành những con giun đất quằn quại, sống động. Tôi thầm thì với dì Sâm là tôi không muốn đi theo gót chân Bà Triệu, mà cũng không muốn có một cuộc sống đơn độc như Mạ, lúc nào cũng đợi chờ. Tôi thì thầm rằng suốt đời, tôi sẽ trồng cây trồng cối trồng hoa trồng lá. Tôi hứa với dì Sâm là tôi sẽ dành cho dì một cây mộc lan đẹp nhất, đầy những bông hoa có cánh mịn nhất, để cho các cô gái hái và ném chơi như những trái banh ten-nít, để cho những chuỗi cười nắc nẻ bao vây cuộc sống thơ ngây êm ả.
Tôi chụm hai tay lại làm thành một vũng ao nhỏ, trong vũng ao tôi nhìn thấy những con giun đất bị đâm oằn oại vô vọng, máu của chúng làm hoen ố tấm màn ren, tấm màn đã bao quanh dì tôi và chẹt nghẽn cổ dì. Tôi lên giường đi ngủ trong khi những đóa mộc lan trắng múa lượn chung quanh dì tôi, những giọt sương đêm đọng trên làn da của dì, chữa lành những vết thương trên da, và làm dịu những mẫu thịt sần sùi để cho người trở lại đẹp đẽ như ngày xưa.
Tôi đã để mặc dì một mình.
Tôi ngả đầu lên gối và chợt nhớ ra rằng tôi chưa hỏi dì tôi lý do tại sao dì lại thích ném hoa mộc lan. Bên ngoài kia, tôi biết chắc là một lúc nào đó, một nơi nào đó, dì tôi sẽ cho tôi biết, và dì cũng sẽ không trách tôi đã ngồi yên lặng ngắm nhìn và khoanh tay không làm gì cả. Dù sao thì lý do đó cũng chẳng còn quan trọng nữa. Đối với tôi, cuối cùng thì dì đã chọn đường trở về.
Về với bóng mộc lan.
CHẤM DỨT PHẦN BA
DNN copyright 2005, 2013, 2017
No comments:
Post a Comment