|
bilingual poetry ̃ artwork by Ng.Uyên, water color on paper 11 x 17 |
Sự ẩn náu vào nghệ thuật: từ Nguyễn Du cuả thế kỷ 18 đến nhà văn Nga
Vladimir Nabokov cuả thế kỷ 20
Trong cuốn tiểu thuyết nhỏ nói về thuyền nhân, Postcards from Nam, tôi nhắc đến cụm từ “refuge of art” (ẩn náu trong nghệ thuật) mà nhà văn Nga Vlaimir Nabokov đã dùng trong tiểu thuyết Lolita được Hollywood phó̃ng tác thành film.
Một độc giả đã viết rằng:
“Nghệ
thuật không thể chỉ là nơi trú ẩn lánh đời tiêu cực của một cá nhân. Sáng tạo
của nghệ thuật luôn luôn là một dâng hiến cho tương lai.”
Refuge of art đã có mặt trong văn chương VN chưa? Tôi nghĩ rằng sẽ có những độc giả VN đồng ý với tôi rằng: Thế kỷ 18 có trường hợp: Nguyễn Du = Truyen Kieu = Thuy Kieu.
Đó là một thí dụ cuả trí thức VN ẩn mình trong nghệ thuật̉. Nguyễn Du ẩn náu vào Truyện Kiều cuả Thanh Tâm Tài Nhân, và trú thân vào nhân vật Thuý Kiều, một tài nữ.
Cụ̣m từ “refuge of
art” khá thông dụng trong văn chương và đời sống văn hóa
Pháp. Việc Nabokov dùng cụm từ này không có gì lạ, vì Paris là đất dung thân
của rất nhiều trí thức Nga tỵ nạn cộng sản, và văn hóa Pháp cũng có dấu chân rất đậm
trên xã hội và văn chương Nga. Nabokov có dùng ý nghĩa thông thường của cụm từ này trong
văn hóa Pháp hay không là chuyện khác. Không có lý do gì bắt buộc người diễn
đạt phải hiểu cụm từ này theo văn hóa Pháp.
Tuy nhiên trong việc trích dẫn
của tôi, có một sự khác biệt rất lớn: ‘Refuge of art” theo Nabokov,
và Lolita, chỉ
là nhân chứng của một tình yêu đam mê đầy sức công phá của một nhà trí thức Âu
Châu đã gạt bỏ khía cạnh đạo đức của xã hội để đi theo một tình yêu mù loà
không giải thích được, một tình yêu có thể đem hại đến cho mình và cho
người: tình yêu phi đạo đức.
Khi trích dẫn "refuge of art" để dùng cho
hai nhân vật ngây thơ của tôi, Mimi và Nam, tôi muốn tạo dựng lên một môi
trường khác cho sự trú ẩn vào nghệ thuật: sự thăng hoa trong kiếp người đau đớn
ở hoàn cảnh bần cùng. Ở đó, Mimi đã và luôn luôn đi tới, trên con đường đi tìm
Nam, con đường nàng đi tìm cái đẹp tập thể…
Cái đẹp tập thể đây phải tạo dựng
trong một môi trường tranh tối tranh sáng, không còn ý niệm đạo đức bất tử hay
nhất quán, vì sự bần cùng của kiếp người trong môi trường đảo điên đã làm sụp
đổ tất cả Ý NIỆM ĐẠO ĐỨC…
Theo một độc giả khác, tôi đã tạo dựng một chương nói về hoàn
cảnh tranh tối tranh sáng trên con đường đi tìm Nam của
Mimi – cái mà tôi gọi là câu chuyện Rashomon của
Việt Nam, khi mà sự thật trở thành mù mờ, và đạo đức bị lật đổ. Nhưng nếu cái đẹp cuả nghệ thuật vẫn còn được Mimi theo đuổi, thì ý niệm đạo đức vẫn còn đó: chân thiện mỹ, bất tử, vượt thời gian và không gian. Điểm này làm cụm từ
“refuge of art” trong ngữ cảnh (contextual meaning) của Nam và Mimi có khái
niệm đạo đức rõ ràng. Do đó, cụm từ cuả tôi, dù rằng lấy từ tiểu thuyết Lolita, khác hẳn cái
“phi đạo đức” tiêu cực của tác giả Lolita, cây bút tài hoa Nabokov.
Toi muốn nói lên hy vọng của
mình — cái còn
lại của cái đã mất – cái đẹp tập thể của cả một dân tộc, sau
khi tất cả những xấu xa đã tự nó dẫy chết …Trên con đường đi tìm cái đẹp tập
thể ấy, Nam và Mimi đã kết hợp và kết tụ – để ẩn náu vào nghệ thuật sáng tạo
sống động và tích cực, trong đó một mình Mimi sẽ tạo dựng lại cái đẹp cuối
cùng, vì nàng đã có Nam làm tượng trưng cho nguồn cội và văn hóa dân tộc – cái
đẹp của hy vọng không thể dập tắt được, hy vọng vào sự trường tồn, và đạo
đức tập thể mà Nabokov không màng tới.
Nabokov l̀à một nhà văn di dân đến từ Nga, và tôi là phụ nữ đến từ VN.
___
Tôi nêu thêm ở đây một vài điểm về tiểu sử rất đặc biệt của Nabokov – một cây bút viết bằng ba thứ tiếng: tiếng mẹ đẻ (Nga), tiếng Pháp (ngôn ngữ
thứ hai), và tiếng Anh (ngôn ngữ thứ ba). Nabokov không có một giải thưởng
gì trong thế giới văn chương (sau này Lolitađược
tuyển chọn làm một trong những tiểu thuyết hay nhất của thế kỷ).
Vị trí
người vợ của ông trong tác phẩm do ông để lại từ trước đến giờ vẫn mù mờ, khó
hiểu.
Nabokov đã xuất bản một “novella”
là tiền thân của Lolita, vẫn trong chiều hướng “phi đạo đức,” và đầy rẫy tính
chất tâm lý hoc, rất tỉ mỉ.
Nabokov không hành nghề văn chương toàn thời
gian. Ông là một giáo sư đại học nghiên cứu một bộ môn cũng rất tỉ mỷ đầy khoa
học tính, và không dính dáng trực tiếp gì đến văn chương.
Tôi thích Nabokov ở những điểm
này. Đồng thời tôi vẫn luôn băn khoăn về tính chất phi đạo đức của văn chương
Nabokov, trong đó nghệ thuật vừa là phương tiện vừa là cứu cánh. Cứu cánh
đó có thể trở thành vô nghĩa trong đời sống nhân sinh.
Đạo Phật của nhân vật
Mimi – hình ảnh con người bơi lội trong bể khổ – nói lên sự vô nghĩa nào đó của
kiếp người. Nhưng trong bể khổ đó, đối với tôi, nghệ thuật không thể nào
“phi đạo đức” như hành trang của Nabokov.
Tôi ngậm ngùi cho chính
mình: một số ít tác phẩm của tôi do chính tôi viết lại bằng tiếng Việt có
rất ít người đọc hay nhắc tới trong cộng đồng Việt Nam (hai vở kịch song ngữ, “Khi Tư Tưởng và Hình Hài Tái Nhập” (When Body and Thought Reunite)
và “Những Gì Đã Xẩy Ra Cho Như
Nguyện?” (What Has
Happened to May All Your Wishes Come True? ) (Như Nguyện đây
là tên nhận vật, không phải là tôi). Đã có hai nhóm, một Việt, một Mỹ, ngỏ ý
muốn dựng hai vở kịch này mà tôi thấy đều không thể được.
Những tác phẩm ít người đọc này
phảng phất nỗi ưu tư cuả tôi về giá trị đạo đức trường cửu trong việc đi tìm cái đẹp và
sáng tạo mà triết học không trả lời, ở bối cảnh di dân hoặc dựa trên tâm trạng
của những người sống ngoài khuôn thước xã hội (thí dụ con ma rút ruột trong
kịch bản Body and Thought).
Khi tôi muốn
viết toàn thời gian (full-time), tôi có bên mình cuốn sách rất ít người
đọc của Nabokov nói về một giáo sư người Nga ở Mỹ (không phải cuốn Lolita), giọng hát bất tử
của Maria Callas (bài Casta Diva), và tình yêu tuyệt đẹp của Nam dành cho Mimi ̣(hai nhân vật cuả tôi) – những đóa hoa tulips của phương Tây vẽ thô sơ trên bưu thiếp, những cánh hoa
Tây đã hướng về Đông, nở rộ trên những làn sóng biển cuồng nộ đã chôn thây không
biết bao nhiêu đồng bào bất hạnh của tôi, trong đó có cả những người đàn bà đã
góp phần vào việc đem phím dương cầm, đem giọng hát soprano, và một chút chữ
nghĩa vào tri thức đơn độc của tôi (chữ tôi dùng đây là tri thức, chứ không
phải là trí thức.) Tôi
muốn nói đến hai cô giáo cũ của tôi ở Trưng Vương…một người dạy toán, và một người dạy nhạc.
Dương Như Nguyện, 2010
No comments:
Post a Comment